Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ văn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thơ văn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

BÀ MẸ VỢ


Bà Mẹ Vợ


       Steve đi làm về, vừa thay quần áo xong là Linh kéo tay anh ngồi xuống giường :
- Em muốn nói với anh một chuyện nghiêm chỉnh nè..
Steve vòng tay qua ôm và hôn vợ, làm Linh dãy nảy lên :
- Trời ơi, em đã nói là chuyện nghiêm chỉnh mà.
Steve cãi :
- Anh hôn em, hôn vợ đâu phải là chuyện đùa.
- Thôi được, nghe em hỏi đây : Anh có muốn con mình bị cảm lạnh không? Không chứ gì ! Anh có muốn con mình bị sưng phổi không ? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị mất ăn, mất ngủ không? Cũng không chứ gì?
Steve kêu lên kinh ngạc:
- Em hôm nay làm sao thế? Em hỏi anh một tràng những câu hỏi khủng khiếp rồi em tự ý trả lời, không chừa cho anh có cơ hội nói một chữ nào.
- Em biết chắc anh sẽ trả lời ? không? nên em trả lời giùm anh luôn cho nhanh.. Nghe em hỏi tiếp đây, anh có biết là chị Hai em mới bảo lãnh mẹ em qua Mỹ được vài tháng nay không? Biết chứ gì! Anh có biết là mẹ đang ở với gia đình chị Hai ở California không? Biết chứ gì!...
Steve lại kêu trời:
- Em nói những chuyện lung tung, chẳng liên quan gì đến nhau cả !
- Có liên quan đây. Em định bàn với anh là mời mẹ về ở chung với chúng mình, để mẹ trông thằng Eugene, khỏi phải mỗi buổi sáng bồng bế nó đi Day Care. Tội nghiệp !
Steve tròn mắt lên:
- Có nghĩa là mẹ em sẽ ở đây dài lâu?
Linh hạ giọng, dịu dàng để Steve cảm động:
- Mẹ sẽ giúp mình được nhiều việc. Anh thấy rồi đó, con mình mới có 9 tháng tuổi mà nay bị cảm, mai bị hỏMỗi sáng sớm xách con ra xe đem đi gởi mà em đau lòng quá. Có mẹ ở đây, Eugene sẽ yên ấm ở nhà, sẽ ăn no ngủ kỹ, ngoài ra, mẹ còn trông nom nhà cửa, nấu nướng phụ em được nữa.
Steve ngạc nhiên:
- Có một bà mẹ già làm được những điều ấy sao?
- Em chẳng biết những bà mẹ Mỹ của anh giỏi cỡ nào! Nhưng mẹ em hay các bà mẹ Việt Nam khác đều là thế cả.
Steve chép miệng:
- Ðiều này rất tốt, nhưng mất sự riêng tư của chúng mình !
Linh năn nỉ:
- Nhà mình rộng thênh thang, mẹ thương em, em thương mẹ và em tin rằng anh cũng sẽ?thương mẹ em luôn.
Thấy Steve chần chừ, Linh tấn công thêm, vì cô biết chồng rất thương con:
- Nhưng vì con mình là trên hết. Mẹ sẽ là người chăm sóc nó tuyệt vời.
Steve trả giá:
- Anh tạm đồng ý. Nếu mẹ ở một thời gian , không thích hợp thì thôi nhé?
Linh vui thích ôm lấy cổ chồng:
- Cám ơn anh, bây giờ anh cứ hôn em đi! Unlimited !
Linh thừa hiểu, người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời sống vợ chồng. Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám, chẳng thằng con rể nào muốn mời tới nhà, nói gì ở chung lâu dài ! Hơn nữa, một bà mẹ vợ không đồng chủng, mới từ Việt Nam qua, chưa gặp gỡ, trò chuyện , thì làm sao mà Steve, một người Mỹ Anglo không e ngại ?
Mẹ và chị Hai đều chấp nhận đề nghị của Linh, con Linh còn nhỏ nên cần sự giúp đỡ của mẹ hơn.Và vì Linh lận đận tình duyên, kén chọn mãi, hơn 30 tuổi mới lấy chồng, nên mẹ cũng thương đứa con lận đận hơn .
Linh mua vé máy bay, hôm sau mẹ Linh đã từ California bay đến xứ núi Utah, ngay những ngày đầu mùa Ðông giá lạnh.
Hôm bà đến, tuyết rơi trắng xoá, những mái nhà phủ đầy tuyết, và xa xa những dãy núi cũng phủ đầy tuyết trắng làm bà rợn người, chợt tưởng như vừa bị ném vào một cõi hoang vu, xa lạ . May mà có cô con gái ngồi bên cạnh, là điểm tựa duy nhất để bà tin là mình không đi lạc, không bị bỏ rơi. Chứ thằng con rể người Mỹ, và thằng cháu ngoại trông giống bố, mắt xanh, tóc vàng kia coi nhử chẳng liên quan gì đến bà.
Về đến nhà, Linh dẫn mẹ đi khắp nhà để chỉ dẫn những điều cần biết về nơi ăn, chốn ở, và những sinh hoạt hàng ngày.
Bắt đầu từ ngày mai, thằng Eugene sẽ ở nhà với bà ngoại.
Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng Linh mở cửa ra đi làm, giữa trời lạnh, tuyết bay ngoài đường, Linh thấy yên lòng vì con mình vẫn đang nằm ngủ êm ấm trong nhà, hơn thế nữa, trong vòng tay chăm sóc, thương yêu của bà ngoại.
Suốt đêm qua, phần vì lạ nhà, phần vì thấp thỏm cho một công việc mới, nên bà không ngủ ngon cho lắm, chỉ còn hai bà cháu ở nhà, bà nằm ngủ tiếp, cho đến khi Eugene tỉnh giấc và khóc, bà tỉnh dậy, thấy đồng hồ chỉ 9 giờ sáng.
Bà thay tã cho nó và đi pha sữa. Nuôi trẻ con ở Mỹ sao mà lắm thứ, lỉnh kỉnh thế ! sữa này, nước trái cây này, đồ ăn sẵn trong hũ nàỷXứ văn minh, giàu có quá chỉ bày đặt ! Hồi xưa, bà nuôi mấy đứa con, có cần những thứ này đâu, mà đứa nào cũng khoẻ mạnh và lớn lên như thổi .
Thằng bé vừa bú bình sữa vừa nhìn bà lạ lẫm, bà cũng có dịp nhìn nó kỹ hơn, nó giống bố, chẳng giống mẹ tí nào, nếu không do chính con gái bà đẻ ra thì bà không tin nó có một nửa dòng máu Việt Nam trong người. Mới hôm qua, bà còn cảm thấy xa lạ nó, mà bây giờ , ôm nó trong tay, nhìn nét mặt bé bỏng, ngây thơ, đang cần bàn tay bà chăm sóc, bà thấy tình máu mủ, ruột thịt, gắn bó với nó biết bao.
Thằng bé đã biết bò, vừa đặt ngồi xuống là nó đã bò thoăn thoắt, nên bà cứ phải để mắt đến cháu luôn, không dám đặt trên giường, sợ nó bò lăn xuống đất.
Ðể chắc ăn, buổi trưa, bà trải một tấm mền ngay giữa phòng khách cho nó nằm ngủ, bà vừa trông nó, vừa nấu cơm. Bà lấy đồ trong tủ lạnh ra, lấy nồi, lấy chảo, lấy dao, lấy thớt?Mọi động tác đều làm nhẹ nhàng, khe khẽ, thế mà thằng bé tỉnh ngủ quá, bà quay lại đã thấy nó thức và ngồi nhỏm dậy từ lúc nào. Bà vội vàng ra đặt nó nằm xuống, vỗ về cho nó ngủ tiếp, rồi khi bà phi hành tỏi, làm món rau xào, vừa đổ rau vào chảo, kêu ?xèỏ một tiếng cũng đủ làm Eugene mở mắt, lại ngồi nhỏm dậy, hai mắt mở to trô trố nhìn bà, cứ vài lần nó tỉnh giấc, và bà vỗ về như thế, mới nấu xong một bữa cơm. Thật căng thẳng và hồi hộp, lo bảo vệ giấc ngủ cho thằng cháu mà bà cứ thấp thỏm, rón rén như đang đi ăn trộm !
Nấu cơm xong, tưởng được thoải mái, thì đến lượt cái điện thoại làm phiền giấc ngủ của cháu bà. Tiếng phone ring inh ỏi, nghe thấy tiếng Mỹ là bà cúp luôn, không để phí phạm thêm một phút giây nào cả. Vì mấy tháng sống ở California với cô con gái lớn, bà đã học được kinh nghiệm là có những cú phone, nói tiếng Mỹ chỉ là quảng cáo, không cần nghe làm chi cho mệt, mà dù có nghe, bà cũng chẳng hiểu .
Bà nhìn cái điện thoại như nhìn một đứa cà chớn, đáng ghét, thế mà nó không chừa, lại ring lên lần nữa, làm tim bà giật thót lên. Lại bốc phone, lại nghe tiếng Mỹ, chắc là thằng cha quảng cáo lúc nãy, bà bực mình, quát vào phone một tràng tiếng Việt Nam:
- Này ! Tôi nói cho ông biết nhé, đừng có gọi quảng cáo đến nhà này làm cháu tôi mất ngủ . Ông mà gọi đến lần nữa là tôỉcúp máy luôn đấy.
Rồi bà đặt phone cái ?kịch? mà vẫn chưa hết bực mình.
Giá như có cái võng đu đưa, thì cháu bà sẽ ngủ say hơn, ngủ lâu hơn, không sợ những tiếng động xung quanh nữa, bà nhìn khắp nhà, không thấy chỗ nào có thể mắc võng được, ở Mỹ coi vậy mà?thiếu tiện nghi. Ở Việt Nam, chỗ nào cũng có thể mắc võng dễ dàng: chân cầu thang, kèo cột, vách tường, hay gốc ổi, gốc mít ngoài sân v..v?
Cuối cùng cháu bà cũng có một giấc ngủ trưa đầy đủ. Thà nó tỉnh dậy, ngồi chơi, bà còn làm được nhiều việc hơn, bà không phải e dè nữa, làm mạnh tay, nhanh chân, vèo một tí là xong, nhà cửa tươm tất, công việc đâu ra đấy.
Buổi chiều Linh về nhà trước, thấy Eugene được ăn ngủ đầy đủ, tắm táp sạch sẽ, Linh vui lắm, xong cô hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, lúc trưa nay, mẹ có chuyện gì mà bực mình thế? Mẹ gắt ầm trong phone.
Bà ngạc nhiên:
 
- Sao con biết? Mẹ gắt mấy thằng quảng cáo đấy, cú gọi đầu làm thằng bé thức giấc, mẹ đã cúp vội máy rồi, nó lì lợm gọi thêm lần nữa, mẹ phải quát nó mới thôi.
Linh ôm bụng cười:
- Chồng con đấy, Steve định gọi cho mẹ để nói Hello với mẹ thôi.
Bà cũng cười, bẻn lẻn :
- Gớm, thôi bảo nó đừng bày đặt nói hello làm gì, cứ nghe điện thoại reo lại nói tiếng Mỹ làm mẹ hết cả hồn.
Ngày đầu chưa quen việc, bà thấy mệt mỏi, vất vả quá, vài ngày sau mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, bà đã nấu những bữa cơm ngon lành, con rể bà bắt đầu nếm những món nọ món kia, mà có cao sang gì đâu, thịt kho tàu, cá kho tộ, tôm rim, thịt bò áp chảỏcanh rau đủ món, thay đổi, làm Steve khám phá ra những cái ngon của đồ ăn Việt Nam, mà Linh chưa hề nấu, phong phú, và đa dạng như mẹ. Ðến nỗi Steve đã hỏi Linh ?Mẹ em trước kia ở Việt nam là chủ nhà hàng hả??.Anh đâu biết, bà chỉ là một người nội trợ bình thường như bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác.
Cháu bà tên Eugene, cái tên gì mà khó đọc, khó nhớ, bà? đổi quách thành cu Tí cho tiện việc, cái tên Việt Nam nghe êm ái và quen thuộc với bà hơn.
Thằng Cu Tí rặt Mỹ, mắt xanh, tóc vàng như rơm, đã quen và thân bà, vì cả ngày ở bên bà, tối lại ngủ với bà. Trước kia, vợ chồng Linh vẫn để nó ngủ một mình trong phòng, bà thấy tội nghiệp cháu quá. Ai đời, vợ chồng ngủ với nhau , để thằng bé ? bơ vơ ? 
 
Thường thường cu Tí rất ngoan, bú xong bình sữa là ngủ ngay, nhưng có khi nó cũng dở chứng như thời tiết, hai mắt cứ mở thao láo không chịu ngủ dù đêm đã khuya. Bà đã phải trổ hết tay nghề của một người đàn bà từng nuôi con mọn, bà bế trên tay, đong đưa, bà ấp trong lòng, vỗ nhẹ vào mông nó. Bà đã trổ hết tài ? văn nghệ?, ru à ơi với ca dao, tục ngữ, rồi chuyển sang hát tân nhạc, rồi xuống giọng ngâm thơ nỉ non. Bà đã  xàỉ hết vốn liếng văn chương của mình mà cu Tí vẫn chưa chịu ngủ, bà nghĩ có lẽ cu Tí chưa cảm thông được tiếng Việt Nam, hay nó tưởng bà kể chuyện, nên mải nghe mà quên ngủ ?? Bà không nản chí, bà tin rằng dần dần nó sẽ hiểu tiếng Việt Nam, những bài ru của bà sẽ đưa nó vào giấc ngủ dễ dàng, như ngày xưa bà đã từng ru mẹ nó, và khi nó lớn hơn một tí bà sẽ tập cu Tí ăn cơm với đồ ăn có chất mắm muối Việt Nam. Dù bố cu Tí là Mỹ, nhưng mẹ nó là dân Việt Nam cơ mà, ngay cả bố nó, Steve cũng đang quen dần với các món ăn Việt Nam, ăn bánh cuốn cũng hăng hái chan đầy nước mắm, cái món không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của người Việt Nam, nhưng đối với hầu hết người Mỹ vẫn là thứ mùi vị  khó chịủ không dễ dàng gì chấp nhận được.
 
Thỉnh thoảng bà vẫn nói chuyện tay đôi với con rể mà không cần con gái thông dịch, bà nói tiếng Việt Nam, Steve nói tiếng Anh, lời nóỉ theo gió bay, vì chẳng ai hiểu ai, nhưng vì nhu cầu bà vẫn cứ nói, còn Steve có hiểu hay không thì mặc kệ nó.
 
Mùa Ðông đã đi qua, phố núi vẫn tràn trề tuyết trắng trên những đỉnh núi xa xa, và lấp lánh màu trắng bạc khi mặt trời có nắng. Trong không gian vẫn còn hơi lạnh dù mùa Xuân đã về, lá bên đường xanh lại, người ta đã quên mùa Ðông để rộn ràng dạo phố, các cửa hàng của Open Air Mall tại Salt Lake City tưng bừng đón khách lại qua, kéo dài tới mùa Hè ngắn ngủi, rồi tới mùa Thu, không gian dìu dịu lạ lùng.
 
Lần đầu tiên trong đời, bà thấy một mùa Thu đúng nghĩa như trong sách vở, thơ văn. Khắp nơi trong thành phố, lá bắt đầu đổi màu, ửng đỏ, ửng vàng từng phần, rồi trở thành đỏ và vàng hàng loạt. Màu lá vàng tươi rói, mơ màng, mà bà tin rằng không một hoạ sĩ nào có thể vẽ nổi cái màu sắc của thiên nhiên thật tuyệt vời ấy. Gió hiu hiu, lá cũng hiu hiu rơi từng chiếc, thế mà dưới những gốc cây chạy dài trên hè phố hay trước sân nhà là cả một thảm lá vàng, đẹp và hoang sơ, tưởng như chưa hề có bước chân người dẫm lên, nên không ai nỡ mang đi, không nỡ quét dọn những chiếc lá thu vàng đó, dù luật của thành phố, đã phát cho cư dân những bao bịch lớn để hốt lá vàng, để mang dấu tích của mùa Thủ đi đổ rác !
 
Rồi màu đỏ, màu vàng của lá đậm hơn, gió vẫn hiu hiu nhưng làm lá rụng nhiều .Có một hôm, gió thổi mạnh, quần quật trên mái nhà, bên vách nhà, những bước chân của gió như đang nổi cơn thịnh nộ. Khi bà vén cửa sổ nhìn ra ngoài, cả một rừng lá đỏ, lá vàng bay tả tơi theo chiều gió, rồi trời đổ mưa, giông gió thế, mà mưa chỉ lâm râm, hay mưa sợ làm đau thêm những chiếc lá vàng vừa mới lìa cành ? những chiếc lá bay đi và theo mưa nằm bẹp trên đường ướt át. Cành cây trước nhà hôm qua còn nhiều lá vàng, giờ trở nên trơ trụi, lạnh lẽo chìm trong mưa mù, làm bà mủi lòng, thấy cuộc đời phù du. Hình như mùa Xuân mới vừa hôm qua, lá xanh non, mà hôm nay Ðông về đã tàn phai !
 
Thế là mùa Ðông lại về, bà đã ở với vợ chồng Linh được 1 năm, cu Tí đã biết đi, đã biết ăn phở, ăn bún, bà cắt nhỏ từng sợi phở, sợi bún, nâng niu đút cho cháu từng thìa, Bà muốn nó biết ăn và yêu thích những món ăn Việt Nam trước khi biết đến Hamburger, khoai tây chiên hay hot dog.
 
Khi cu Tí bập bẹ học nói, tiếng đầu tiên nó thốt ra là bà, bằng tiếng Việt Nam, bà sẽ dạy nó uốn lưỡi để nói thêm chữ ngoạỉ, thành bà ngoạỉ đàng hoàng. Cu Tí cả ngày quấn quýt bên bà, thằng bé khoẻ mạnh, phổng phao hẳn lên, nó không còn bị ốm vặt như thời đi Day care nữa. Bà thích ngắm cháu, lúc nó vui cười hay cả lúc nó hờn dỗi vì gắt ngủ, đói sữa, khóc dãy lên đành đạch, nước mắt, nước mũi nhoèn ra hai bên má, dễ thương như mặt mèo.
 
Một hôm, bà phải trở về California để dự đám cưới đứa cháu, cũng là dịp thăm lại gia đình cô con gái lớn, con nào bà cũng thương, trước sau gì bà cũng phải về thăm chúng.
 
Thế là vợ chồng Linh lại phải đem cu Tí đi Day care gởi 1 tháng, coi như bà ngoại đi vacation . Bà đi rồi, nhà cửa trống vắng hẳn ra, công việc bỗng ùn lên làm hai vợ chồng Linh bối rối. Ði làm về Steve lo đón con, Linh lo nấu nướng, rồi tắm rửa cho con, dọn dẹp nhà cửa và bao nhiêu thứ việc lặt vặt khác. Những buổi tối đầu tiên xa bà ngoại, cu Tí khó ngủ, có lẽ nó đang đợi nghe những bài ca dao, tục ngữ, những lời ru à ơi, vời vợi, êm ả của bà, dù cái thằng cu Tí kia đã hiểu gì tiếng Việt Nam.
 
Steve buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng , anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào ! Chẳng cần ai nói , Steve cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Anh đã có một người vợ tuyệt vời, yêu chồng, thương con, lại có thêm một bà mẹ vợ cũng tuyệt vời. Mới 2 tuần trôi qua, chưa đến hẹn bà mẹ vợ trở về, Steve bồn chồn hơn cả Linh, anh đã sốt ruột gọi phone cho bà, anh ngọng ngiụ mãi mới nói được một câu tiếng Việt :
- Mẹ ? sẽ...trở..về? với chúng con?không ?
Bên kia đầu dây, bà cũng vất vả không kém, lắp ba lắp bắp để nói được vài chữ tiếng Anh:
- OK?wị.ll?cọ.mẹ.bạ.ok?
Vẫn cảm thấy chưa nói được hết ý, bà bổ sung thêm một tràng tiếng Việt :
- Con yên trí, mẹ thương hai con và thằng cu Tí lắm, mẹ sẽ trở về để sống với các con chứ, mẹ không ở đây một tháng đâu. Mùa Ðông đang bắt đầu, mẹ sợ cu Tí mang ra ngoài bị cảm lạnh. Tuần sau mẹ sẽ về con nhé.


Nguyễn thị Thanh Dương

Thứ Sáu, 10 tháng 6, 2011

TÌNH MẸ BAO LA

Bao La Tình Mẹ



Tác giả Đỗ Minh Triệu sinh năm 1968. Bị mắc chứng bệnh quái ác "Muscular Dystrophy" làm teo cơ bắp từ năm 10 tuổi.
Ba năm sau, 1991, cùng cha mẹ và 3 em gái qua Mỹ theo diện cựu tù chính trị, hiện cư ngụ tại thành phố Poway, San Diego, California.
Bài viết của Minh Triệu là một tự truyện chân thật và xúc động. Để có bài viết này, tác giả đã vất vả nhiều năm tháng, vì không thể ngồi lâu, và vì chỉ còn xử dụng được một ngón tay duy nhất để gõ phím và bấm mouse.
Ông cũng là nhạc sĩ nghiệp dư vinh danh tình mẹ bằng ca khúc "Ánh Sao Tình Mẹ" Bài hát được đưa lên Youtube gần ba năm qua, hiện đã có hơn 32,000 lượt người coi.

 hai mẹ con tác giả Minh Triệu

Tôi sinh năm 1968 nay đã 43 tuổi, thực sự “gìa đầu” rồi mà tôi vẫn còn được mẹ chăm sóc, thay quần áo, tắm rửa, gội đầu, bón cơm, thay tã lót cho như một em bé sơ sinh. Tôi chính thật là đứa con được mẹ thương yêu nhất trần gian. Nhiều đêm bệnh hành hạ không ngủ được, dõi mắt nhìn mẹ tóc bạc da mồi nằm giường bên, đang thiếp ngủ mệt, sau một ngày vất vả lo cho con.
Tôi thật đau lòng! Buồn lắm! Thương mẹ đến chảy nước mắt, tôi thì thầm khẽ gọi:
-Mẹ ơi, mẹ có biết con yêu mẹ vô ngần. Tình mẹ cho con bao la trời biển, cả cuộc đời mẹ đã đổ bao nhiêu nước mắt, xót thương đứa con kém may mắn nhất của mẹ. Mẹ ơi, con không thể nào sống được khi thiếu mẹ, vì mẹ là hơi thở, là mắt, là tay, là chân của con …
Đã bao lần tôi tự nghĩ và hiểu là nếu tôi chết đi, mẹ sẽ đau buồn lắm. Nhưng nỗi buồn của mẹ rồi sẽ nguôi ngoai theo thời gian. Chẳng hơn là hằng ngày mẹ phải nhìn thấy tôi sống tật nguyền đau đớn, với hình hài chẳng khác nào bộ xương cách trí, được che dấu dưới manh quần tấm áo và đôi bí tất...
Như một bà Tiên có phép thuật, mẹ biết tôi đã nghĩ đến cái chết, nên bà thường hay nói với tôi rằng :
- Con là lẽ sống của mẹ, cả đời mẹ được chăm sóc con như một em bé mẹ rất hạnh phúc.
-Con cần can đảm sống để đối diện, thi gan, thử thách với bệnh tật.
- Chẳng phải y khoa đang theo dõi từng biến chuyển trên thân xác con, chẳng phải con đã mong ước chờ đến ngày khoa học tìm ra thuốc chữa căn bệnh “Muscular Dystrophy” quái ác này. Vậy thì ít nhiều khoa học cũng cần dựa trên thử nghiệm, và trên cả thời gian là bao lâu con can đảm sống chờ đợi và hy vọng. Con hãy nói với Chúa: “Here I am, Lord; I come to do your will .”
Tôi thương mẹ và vâng lời, nên Chúa đã phải nghe tôi yếu đuối tuyên xưng đức tin, mỗi khi tôi cần tự xoa dịu đau đớn, cần có sức chịu đựng nỗi thống khổ mà tôi không thể tự vất bỏ đi được. Ngay cả đến con ruồi, con muỗi bé tí tẹo chúng cũng có thể tự do hành hạ tôi, cho đến khi mẹ tôi ra tay cứu giúp, đuổi chúng đi.
Nói chính xác là tôi đã tồn tại trên thế gian này 43 năm, cũng là một phép lạ, một sự tỏ rõ quyền năng của đấng tạo hóa có quyền ban sự sống cho con người, và Ngài chưa muốn đem tôi ra khỏi thế gian này, tôi còn phải sống bằng cách này hay cách khác trong khổ đau. Tôi nghĩ bất cứ người nào nhìn thấy tôi, cũng đều rất ái ngại và thầm nghĩ : “phải sống như thế thà chết sướng hơn”.
Thử hỏi còn gì đau khổ bằng khi tôi vẫn còn có đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, cái miệng để gọi mẹ suốt ngày và nhất là còn có cái đầu tỉnh táo biết thương nhớ, giận hờn, biết cảm nhận niềm vui, nỗi buồn, biết phân biệt phải trái, đúng hay sai, biết đói, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết đau đớn tê dại, biết nhờm gớm khi đã tiêu, tiểu ra tã v.v...
Nói tóm lại, khuôn mặt và bộ não của tôi trong 43 năm qua vẫn nguyên vẹn, bình thường, không bị ảnh hưởng bởi bệnh “Muscular Dystrophy”, một chứng bệnh làm teo dần các cơ bắp, mà tôi đã mắc phải từ năm lên chín hay lên mười tuổi.
Cha tôi là Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mẹ tôi là Công Chức. Ngày 30-4-1975 Cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam, thì đến ngày 29-5-1975 cha tôi phải đi trình diện “Học Tập Cải Tạo”, lúc đó mẹ tôi mới sinh em bé thứ tư được một tháng và tôi là đứa con lớn nhất mới được 7 tuổi. Lệnh bắt cha đi “học tập” nghe nói Thiếu Tá học một tháng thì về. Nhưng mà thời gian cha tôi phải “học” trong các trại tù cải tạo lâu lắm, lâu gấp 120 lần thời gian VC gian dối nói là cha tôi đi học chỉ có một tháng, trong khi cha đã học hết 5 năm ngoài Bắc, còn phải học thêm 5 năm trong Nam nữa, mới được tha về gặp lại mẹ và 4 anh em chúng tôi năm 1985.
Ngày cha đi tù cải tạo, tôi vẫn còn mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn theo tuổi đời và phát triển bình thường như bao trẻ khác. Vậy mà hai, ba năm sau, chẳng biết tôi mắc phải chứng bệnh gì, cơ thể sinh ra yếu đuối, tay chân rệu rã, đi đứng không được vững vàng. Chỉ cần một sự va chạm nhẹ vào người tôi của ai đó, tôi cũng ngã lăn ra và khó khăn lắm mới đứng dậy được. Còn va chạm mạnh thì u trán, vỡ đầu. Vì thế trong thời gian còn đi học, thầy hoặc cô giáo đã phải đem tôi đến trạm xá hay nhà thương khâu vài mũi hay nhiều hơn, cho nên trên đầu tôi mới có nhiều vết sẹo lớn, nhỏ.
Khi tôi bắt đầu phát bệnh khoảng chừng vào năm 1978 hay 1979 gì đó, thời gian này người ta đồn ầm lên là trong Chợ Lớn có một ông Thầy rất tài giỏi, chữa bệnh theo cách văn minh tân tiến, không cần dùng thuốc mà dùng “xung điện” để chữa trị. Lúc đó tôi nào biết “xung điện” là gì. Chỉ biết là người thầy “tài giỏi” này dùng hai tay đặt lên đầu, lên vai bệnh nhân để chuyền “điện” của ông (gọi là nhân điện) chạy qua cơ thể người bệnh, gặp “điện” của bệnh nhân. Hai luồng “điện” này gặp nhau, thì xảy ra “xung điện” diệt trừ căn bệnh. Cách điều trị giản dị chỉ có thế thôi. Bất kể là bệnh gì.
Thầy chữa bệnh làm phước, không lấy tiền (nhưng thầy vui vẻ nhận quà cáp bệnh nhân đem đến), vì vậy số bệnh nhân đến xin được Thầy chữa bệnh mỗi ngày rất đông. Nhà tôi ở xa, mẹ con tôi phải ra khỏi nhà từ 4 giờ sáng, đến địa điểm xếp hàng lấy số thứ tự cùng một đám đông người. Chờ tới khoảng 8 giờ thì Thầy đến cùng với người phụ tá. Người phụ tá gọi từng đợt 10 người theo số bắt đầu từ 1 đến 10, bệnh nhân trong số được gọi, mau mắn vào trong ngồi xếp thành vòng tròn, để Thầy đi chung quanh đặt tay lên đầu, lên vai truyền “điện” cho nhanh chóng .
Sáng nào cũng vậy, mẹ tôi cứ phải dùng khăn ướt lau mặt cho tôi: đứa bé 10 tuổi còn đang say ngủ, có như vậy tôi mới chịu tỉnh ngủ mở mắt ra, và mẹ mới lôi được tôi đến bên chiếc xe đạp xe đạp mini cũ kỹ, xốc tôi ngồi lên, bắt vòng tay ôm lưng mẹ cho chặt, để mẹ chở vào Chợ Lớn nhờ thầy truyền “điện”, tạo “xung điện” giúp cho cơ thể tôi cứng cáp, mạnh khỏe trở lại. Ngày nào mẹ tôi làm việc vất vả quá mệt, ngủ quên đến 6, 7 giờ sáng mới thức dậy, thì phải đi vội vã lắm. Và hôm ấy, nhanh nhất cũng phải đến 2, 3 giờ chiều, mẹ con tôi mới về đến nhà, rất mệt mỏi và đói khát. Tôi không thích thú và tin tưởng vào sức mạnh “nhân điện” của thầy, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn theo mẹ mỗi ngày đi chữa bệnh cho mẹ vui lòng, nhất là bà Nội tôi lại luôn nói :“có bệnh phải chịu khó chạy đi vái tứ phương cháu ạ”.
Dù có phải “vái bệnh” vất vả tứ phương mẹ tôi cũng không ngại, nhưng sau mấy tháng nghỉ hè kiên trì theo Thầy, mà bệnh tình của tôi cũng không thấy có được một chút kết quả nào, mẹ con tôi đành bỏ cuộc, khi năm học mới đã bắt đầu. Thời gian này, mẹ tôi chở tôi đến cổng trường bằng chiếc xe mini cọc cạch, từ cổng trường tôi có thể tự đi vào lớp. Nhưng rồi sau đó, đã có vài lần tôi tuột khỏi xe, ngã xuống đường rất nguy hiểm, nên mẹ không dám chở tôi đi học bằng xe đạp nữa, bà phải cõng tôi đến trường, đưa tôi vào tận chỗ ngồi trong lớp học. Đến giờ tan học, mẹ lại bỏ công bỏ việc chạy vội đến lớp cõng tôi về, bất kể ngày nắng, ngày mưa. Muốn tôi đi học, mẹ phải cõng thôi, vì hai chân tôi bây giờ chỉ còn khả năng đi được khoảng vài mươi bước, có người đi kèm cặp bên cạnh.
Đi học mà hành mẹ tôi như thế tôi thấy ái ngại và xấu hổ lắm, nên đã nhiều lần tôi xin mẹ cho tôi nghỉ học, nhưng mẹ tôi cương quyết không cho, mẹ nói: bệnh tật như con càng phải học nhiều hơn. Con và mẹ chúng ta cùng cố gắng: mẹ cố gắng lo cho các con có cơm ăn áo mặc, các con cố gắng học chăm học giỏi, hãy nghĩ đến cha đang bị tù đày. Và mãi đến khi tôi tốt nghiệp cấp 2, phải thi vào cấp 3 không đậu, một phần vì bệnh tật, một phần vì cái “tội” con Thiếu Tá “ngụy”. Đến lúc này mẹ tôi mới đành chịu bó tay và buồn lắm, khi tôi không được tiếp tục việc học nữa.
Không đi học ở nhà quanh quẩn với bà Nội, bệnh tôi cứ vậy tăng thêm theo ngày tháng. Đến năm 1988 hai chân tôi không còn có thể đứng thẳng mà lê bước, ngay cả khi tôi dùng hai tay vịn, men theo điểm tựa mà nhấc chân đi cũng không được nữa. Muốn di chuyển quanh nhà, tôi phải ngồi xe lăn hoặc ngồi bệt xuống đất, dùng mông và hai tay chống mà lết đi, khi tôi tròn tuổi hai mươi, rất thèm đi đứng chạy nhảy với chúng bạn.
Năm 1991, gia đình tôi được qua Mỹ định cư theo diện H.O # 8. Ngay sau khi được cấp thẻ Medi-Cal, mẹ tôi đã sốt sắng đưa tôi đi chữa bệnh. Gặp bác sĩ gia đình giới thiệu tôi đến bác sĩ chuyên khoa, rồi ông chuyên khoa giới thiệu đến cả bệnh viện này, nọ. Cuối cùng tôi được chuyển đến Bệnh Viện của trường University of California of San Diego (UCSD) để khám toàn khoa, và làm tất cả những xét nghiệm cần thiết, kể cả thử DNA (Deoxyribonuleic Acid). Kết quả cho biết là tôi bị bệnh “Muscular Dystrophy - Backer”, một chứng bệnh làm teo dần bắp thịt (chỉ xảy ra cho nam giới). Bệnh này được tìm ra bởi vị bác sĩ tên Becker (M.D Becker).
Khi định được bệnh rồi, bác sĩ cho biết căn bệnh quái ác này vẫn chưa có thuốc ngăn ngừa và chữa trị, mặc dù cả thế giới, đặc biệt là nước Mỹ đã và đang nỗ lực nghiên cứu. Trong tuyệt vọng, tôi thầm cầu nguyện và rất hy vọng một ngày nào đó, các nhà khoa học sẽ tìm ra thuốc chữa trị và thuốc ngăn ngừa, để thế giới loài người không còn có ai bị mắc bệnh “Muscular Dystrophy” nữa.
Cha tôi vận rủi ngã ngựa, bị VC bắt nhốt tù 10 năm, cho tôi vận may đến được nước Mỹ, một xứ sở văn minh, giàu có và nhân ái nhất thế giới. Nên dù bệnh tật của tôi nan y không thể chữa trị, tôi cũng được an ủi phần nào, vì không phải lo lắng, chẳng biết làm gì để kiếm được miếng ăn, không phải lo sống đời tủi nhục như ở Việt Nam. Bởi vì chính phủ Mỹ có chương trình giúp đỡ những người bệnh tật, không còn khả năng lao động như tôi được chăm sóc sức khỏe, được ăn no, mặc ấm, được hưởng tiền bệnh tật, gọi là tiền SSI (Supplemental Security Income).
Tôi không có khả năng lao động nữa, nhưng mẹ tôi quả quyết: tôi vẫn có khả năng đi học để mở mang kiến thức, tránh thì giờ buồn chán, và để có thể học cho mình một ngành nghề, chỉ cần xử dụng khối óc và hai tay (khẳng khiu yếu đuối) học về văn thơ, hay học về computer chẳng hạn, còn hai chân thì cứ kệ cho nó lười biếng đặt trên xe lăn…
Nghe mẹ nói vậy, tôi cố tảng lờ đi. Nhưng mẹ tôi không bỏ cuộc, bà cứ theo khuyến khích, thuyết phục tôi mãi bà nói:
-Học vấn rất cần thiết cho con. Tri thức đưa con đến với thế giới bao la, cho con đời sống vui vẻ hơn, hạnh phúc hơn. Con thử nghĩ xem, tại sao mẹ đã luống tuổi rồi mà còn đi học, với mơ ước sẽ tốt nghiệp “Medical Assisstant” để biết lối mà chăm sóc cho con một cách khoa học, và mẹ còn mơ ước xa hơn nữa, là được tình nguyện săn sóc những bệnh nhân hoạn nạn, tàn tật ở những nước nghèo đói, khi mẹ có điều kiện và hoàn cảnh cho phép.
Tấm gương hiếu học của mẹ đã nâng đỡ, khuyến khích tôi, nhưng chủ đích cũng vẫn là để làm vui lòng mẹ, nên tôi đã theo mẹ đến trường Mesa College làm thủ tục nộp đơn xin nhập học. Việc đơn từ ở trường, mẹ tôi rành lắm vì bà đã theo học ở Mesa College từ năm trước rồi, tôi không phải lo lắng gì cả đã có mẹ giúp đỡ.
Những năm tháng hai mẹ con tôi theo học ở trường Mesa College tràn đầy thử thách, nhiều lúc tưởng đâu đã phải bỏ cuộc, không kham nổi những vất vả khó khăn, trần ai lắm khi đi học.
Trong diện dân nghèo “low income”, mấy mẹ con chúng tôi chỉ thuê được căn hộ trên lầu của một Apartment. Nên mỗi ngày đi học, mẹ tôi phải thức dậy từ rất sớm, dọn dẹp nhà cửa, lo điểm tâm cho cả nhà, lo nhắc nhở các em gái tôi đừng để lỡ chuyến xe Bus, phải đi học cho đúng giờ ,v.v…
Khi các em gái tôi đã ra khỏi nhà đi học, lúc đó bà mới đem cặp sách của tôi và mẹ xuống dưới lầu, cất bỏ vào trong xe trước, rồi đi trở lại nhà trên lầu, bồng tôi trên hai tay đi ra cửa và đưa chân đá cho cánh cửa đóng khóa lại, rồi khệ nệ bồng tôi xuống thang lầu, đặt tôi vào xe, kéo dây an toàn gài móc vào cẩn thận cho tôi, rồi bà mới ngồi vào ghế tài xế.
Từ nhà tôi, mẹ lái xe chạy khoảng 20 phút thì đến trường. Đậu xe vào parking của trường xong xuôi, bà ra sau xe mở “cốp” xe lên, lôi chiếc xe lăn ra ráp lại cho ngay ngắn, vững chắc, rồi mới mở cửa xe, nghiêng người vào bồng tôi ra, đặt ngồi trên xe lăn và đẩy tôi đến lớp học của tôi, tìm chỗ để xe của tôi vào đâu cho thuận tiện nhất, rồi mẹ mới đi đến lớp của bà.
Trong lớp học, vì hai tay tôi yếu, rất khó khăn “take note”, nên nhà trường trả tiền “work study” cho một sinh viên, giúp tôi ghi chép vào “note book” những lời thầy giảng dậy hay dặn dò làm “home work” ở trang nào, sách nào, và hết buổi học thì đẩy tôi đến lớp kế tiếp hay lên phòng Lab …
Khi tan học, mẹ lại vội vôi vàng vàng chạy đến đón tôi ở phòng Lab hay ở lớp học cuối cùng nào đó. Lại đẩy xe lăn tôi ra Parking, bồng tôi vào xe, cài dây an toàn, đem cất xe lăn vào “cốp” xe và lái về nhà. Về đến nhà, tôi vẫn ngồi trên xe, chờ mẹ tôi đem cặp sách của hai mẹ con lên nhà trước, sau đó mẹ mở sẵn cửa phòng, rồi mới trở xuống xe, ì ạch bồng tôi bước 18 bậc thang lên tầng lầu. Vào trong nhà, đặt tôi lên giường xong, mẹ thường phải thay tã cho tôi ngay. Sau đó hỏi tôi có muốn ăn hay uống gì không để mẹ lấy.
Lo cho tôi tạm xong, mẹ bắt đầu làm việc nhà, làm đủ thứ việc không tên, rồi lại đi học thêm một, hai lớp nữa, còn tôi ở nhà lo làm “home work” và chờ mẹ về lo bữa ăn tối cho cho cả nhà.
Mùa Đông nước Mỹ có nhiều ngày mưa phùn gío rét, tôi muốn nghỉ học ở nhà lắm, nhưng mẹ tôi vẫn cương quyết không bỏ lớp nào, nhất định chịu ướt, chịu lạnh bồng bế tôi lên, xuống thang lầu và đi học rất đúng giờ. Nhằm mùa học không có lớp ban ngày, trùng giờ cho cả hai mẹ con, chúng tôi phải chọn lớp đêm để học. Mùa Đông trời mau tối và ban đêm rất lạnh, có khi mẹ bồng tôi đặt được vào xe rồi, là cả hai mẹ con ngồi run cầm cập, thế mà xe lại phải mở máy lạnh cho kiếng trong xe hết mờ, sáng trong trở lại mới thấy đường mà lái xe về nhà, những lúc ấy mẹ luôn xuýt xoa nói:
-Tội nghiệp con quá, con ráng chịu lạnh một tí mẹ mở lại heat là ấm ngay nhé !
Đâu phải một mình tôi lạnh, mẹ cũng lạnh vậy, nhưng mẹ không lo cho mẹ mà chỉ nghĩ đến con. Mẹ con tôi chịu đựng vất vả như thế trên con đường trau giồi kiến thức. Và mẹ đã tốt nghiệp “Medical Assisstant” hồi tháng 5 năm 1997. Tôi rất hãnh diện về mẹ.
Và tôi cũng tự hãnh diện về mình, khi được nhận mảnh bằng AS “Associate of Art” ngành “Computer Information Science” vào tháng 6 năm 2000. Mảnh bằng này rất khiêm tốn, nhỏ bé, nhưng tôi có được nhờ vào tất cả công lao khó nhọc của mẹ. Mẹ đã đổ biết bao mồ hôi, nước mắt cho con niềm tin, niềm tự hào còn có mẹ nâng đỡ ủi an. Ngoài mảnh bằng tôi có được sau 6 năm, (trong khi người bình thường chỉ cần 2 năm) tôi còn học được thêm bài học “vượt gian khó” quý gía, và biết ý thức cần phải học vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Cầm được mảnh bằng AA nhỏ bé trong tay, tôi tự tin và mơ ước đến ngày sẽ cầm được mảnh bằng lớn hơn là BA hoặc BS (4 năm Đại Học) thì căn bệnh “ Muscula Dystrophy” trầm trọng hơn, theo thời gian đã làm teo hết các cơ bắp vùng ngực và lưng, ép phổi tôi teo lại, khiến tôi ngộp và khó thở, nguy hiểm đến tính mạng.
Tôi được đưa ngay vào bệnh viện “SHARP”, bác sĩ trách nhiệm đã khuyên tôi phải chọn một trong hai giải pháp:
1. Không cần sự can thiệp của khoa học, chấp nhận sự rủi ro sẽ đến. Có nghĩa là tôi sẽ chết ngộp bất cứ lúc nào.
2. Phải phẫu thuật, mở một lỗ nơi cổ, đặt ống gắn máy trợ giúp cho sự hô hấp. Như vậy mối nguy hiểm sẽ bớt đe dọa tính mạng và sự sống của tôi sẽ được dài thêm.
Thương mẹ, tôi đã chấp nhận giải pháp thứ hai.
Trước khi mổ, mẹ và tôi đã phải ký giấy chấp nhận mọi tình huống có thể xảy đến với tôi, kể cả tôi sẽ “ngủ” luôn trong ca mổ, không bao giờ thức dậy nữa. Mười giờ sáng ngày ấn định mổ, mẹ đẩy xe lăn đưa tôi đến nhập viện. Mẹ đã cầm hai bàn tay khẳng khiu của tôi, ôm hôn trán tôi trước khi hai bà y tá đẩy tôi vào phòng mổ, còn mẹ được hướng dẫn xuống lầu, đến phòng chờ đợi chờ kết quả ca mổ kết thúc (tốt đẹp hay xấu). Tại phòng chờ đợi, vì lo cho tính mạng của con, mẹ đứng ngồi không yên, đi ra đi vào bồn chồn đếm thời gian từng phút chậm chạm trôi qua như người ngớ ngẩn.
Trong năm tiếng đồng hồ chờ đợi, mẹ tôi không ăn uống gì cả, bà chỉ biết cầu nguyện rồi phó thác và xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Rồi cũng tới lúc nghe cô y tá dùng máy phóng thanh gọi mẹ tôi lên lầu. Lên lầu vừa trông thấy tôi, nét mặt mẹ liền rạng rỡ, vì mẹ biết là tôi vẫn còn sống, còn ở lại trần gian với bà, mẹ chưa vĩnh viễn mất con đứa con bất hạnh.
Mắt mẹ rưng rưng lệ nhìn vào cổ tôi, sau khi giảu phẩu đã được đặt vào một ống plastic tròn, to bằng 3 ngón tay chụm lại, trong khi tay mẹ vuốt tóc tôi như chia xẻ, như muốn gánh vác bớt cho tôi những đau đớn mà tôi đang chịu. Hiểu lòng mẹ bao la, tôi cố nén mọi đau đớn, ráng gượng nở nụ cười với mẹ cho mẹ an lòng. Nhưng nụ cười đầu tiên của con dành cho mẹ, sau khi hồi sinh vẫn còn ảnh hưởng thuốc mê, nên không trọn vẹn, không đủ xóa hết những lo âu, sợ hãi của mẹ. Tuy vậy, bao nhiêu mệt mỏi của mẹ như đã tan biến, khi cuộc đời mẹ tưởng đã cạn kiệt hy vọng, lại đong đầy niềm vui và ý nghĩa cuộc sống, khi núm ruột của mẹ vẫn còn đây. Mẹ lại được tiếp tục yêu thương, ấp ủ con trong vòng tay ấm áp, ngọt ngào tình mẫu tử. Tôi không thể ôm mẹ được, tủi thân nên nước mắt tôi trào ra, không kìm chế được nữa, dù tôi đã tự hứa không bao giờ để mẹ thấy con khóc mà đau lòng. Mẹ ơi, thế là cuộc đời con từ đây phải sống nhờ vào máy móc, và mẹ phải thêm công việc chăm sóc sệ sinh, thay ống, rửa những linh kiện nối từ máy thở vào ống thở đặt nơi cổ họng chuyền qua vòm họng, thay thế cho buồng phổi của con, giúp con duy trì sự sống.
Phần tôi, rất đau đớn vì một vật lạ, luôn nằm nơi cổ họng, nối vào khí quản. Mỗi cử động dù nhỏ đều làm tôi đau đớn khôn cùng và luôn phải nhờ mẹ giúp đỡ. Thân xác tôi như nằm trên bàn chông chịu cực hình. Tôi quá tuyệt vọng vì nỗi đau thể xác, nên tinh thần bấn loạn. Lần này, tôi thực sự không muốn sống nữa, tôi muốn từ gĩa cõi đời, muốn được giải thoát khỏi cực hình. Dù sao tôi cũng đã có 34 năm sống trong vòng tay êm đềm của mẹ, thế là đã quá đủ rồi xin hãy cho tôi trở về với cát bụi. Tôi bày tỏ cùng mẹ ý định này của tôi.
Nghe vậy, bà vội vàng ôm chầm lấy tôi, nức nở, nghẹn ngào qua làn nước mắt:
-Con bỏ mẹ đi, mẹ biết sống cùng ai, sống cho ai nữa đây! Con đi rồi còn ai để mẹ nâng giấc ủi an! Ai sẽ cho mẹ những giây phút dịu dàng hạnh phúc và hy vọng dù rất hiếm hoi, để cùng nhau đi hết đoạn đường đời cay nghiệt! Triệu ơi! mất con rồi đời mẹ thành vô nghĩa. Lạc lối về mẹ mất cả ánh sao đêm trông mong hy vọng. Con đừng bỏ mẹ bơ vơ trơ trọi giữa đường đời, vốn đã nghiệt ngã với mẹ con ta. Triệu ơi, hãy vì mẹ con can đảm lên mà sống! Mẹ ẵm bồng con, con an ủi mẹ chúng ta đỡ nâng nhau. Con ơi, đừng bỏ mẹ …
Lời mẹ than vãn làm tim tôi đau nhói, thắt ngặt lại và tôi cũng nức nở như chưa bao giờ được khóc trong đời. Tôi phải sống! Cho dù tôi tàn tật; cho dù tôi đau yếu mang bệnh nan y, nhưng sự hiện hữu của tôi mới làm cho nụ cười còn đọng mãi trên đôi môi mẹ.
Sự sống là cao quí. Cuộc đời dù là bất hạnh, cùng khổ đến đâu cũng đều có ý nghĩa sống, sống vị tha và rất cần đức hy sinh cùng lòng hiếu thảo. Mẹ ơi! Hai hàng lệ của mẹ hoà với nước mắt con, tự làm thành tờ giao ước của hai mẹ con ta, phải đồng lòng gắn bó đời nhau cho đến “khi Chúa thương gọi về”. Thân xác dù tàn tật cũng không được tự ý hủy bỏ.
Tôi phải sống vì mẹ như mẹ đã từng sống vì tôi! Tôi hiểu lòng mẹ tan nát mỗi lúc nhìn tôi và lòng tôi cũng nát tan khi thấy mẹ nước mắt mãi lưng tròng!
Có phải tại vì mẹ đẹp người, đẹp nết nên phải chịu cảnh hồng nhan là đa truân?
Có thật định mệnh đố kỵ muốn làm chết đuối "người trên cạn mà chơi"?
Ôi, định mệnh! Định mệnh sao quá trớ trêu! Định mệnh đã dành riêng cho mẹ những bất hạnh truân chuyên. Từ tuổi 30, mẹ đã phải một thân một mình nuôi dạy bốn đứa con thơ dại, vất vả nhất là chăm sóc đứa con tật nguyền, chăm sóc bà nội nay ốm mai đau, thay cha báo hiếu, lo mộ phần an nghỉ cho bà nội, lo kiếm thêm tiền thăm nuôi, tiếp tế lương thực, thuốc men cho cha trong suốt 10 năm tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Mẹ quá vất vả, tảo tần, dãi nắng dầm mưa, bất chấp mọi gian nan, khốn khó, hiểm nguy luôn đe dọa đến tính mạng, vì mẹ phải buôn chui, bán chợ đen, chợ đỏ dưới mắt cú vọ của công an nhân dân, mẹ mới đem lại sự ấm no cho gia đình 6 người, trong hoàn cảnh cả nước ăn bo bo, mì sợi, ngô, khoai thay cơm gạo, sau ngày miền Nam được “giải phóng”, cha được “đi học” mút mùa.
Ôi! Mẹ hiền của tôi, một người mẹ vất cả đời mà không hề than vãn, mẹ âm thầm tận tụy, cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho gia đình. Qua mẹ, tôi nhớ đến câu danh ngôn: "Thượng đế không thể ở khắp mọi nơi, nên Ngài phải sinh ra những người mẹ". Và tôi liên tưởng đến Đức Mẹ Maria đã phải chứng kiến những nhục hình tra tấn của quân dữ trước giờ Jesus, con một của Người bị đóng đinh trên thập giá. Còn mẹ tôi, cũng khổ đau không kém gì Mẹ Maria vì mẹ suốt đời phải xót xa nhìn đứa con trai đầu lòng duy nhất của mình, hằng ngày phải chịu khổ hình trong bệnh tật.
Thật không giấy bút nào tả xiết và tôi cũng không đủ khả năng để nói lên được lòng can đảm và sự chịu thương chịu khó, sự kiên trì cùng trái tim đầy ắp yêu thương, nhân hậu của mẹ tôi. Tôi chỉ biết yêu mẹ bằng luỹ thừa tình yêu mẹ mỗi ngày và sống, dù là sống nhờ mẹ và máy móc dây nhợ quanh người.
Có lần tôi những tưởng đã mất mẹ vĩnh viễn, khi bà bị một tai nạn xe hơi rất nặng giữa xa lộ 163, bà bị gãy chân và bể đầu bất tỉnh. Tưởng mẹ tôi đã chết trong xe, người gây ra thảm trạng cho mẹ tôi đã bỏ chạy trốn mất. Ấy thế mà, sau bảy tiếng đồng hồ phẩu thuật, vừa hồi tỉnh, điều mẹ tôi quan tâm đầu tiên là hỏi:
-Triệu đâu? Con tôi vẫn bình yên chứ?
Sau tai nạn đó mẹ tôi lại mang thêm trong chân những chiếc đinh vít inox, mà những lúc trái gió trở trời thường làm mẹ tôi nhức nhối khổ sở lắm. Những lúc ấy, tôi thương mẹ biết chừng nào.
Mẹ Hoàng Minh Đức ơi, chúng con yêu thương và kính trọng mẹ vô ngần, vì trong bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ cũng luôn dậy bảo, nhắc nhở anh em chúng con phải biết vâng lời, sống ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành, luôn thật thà, khiêm cung, không hiềm tỵ ganh ghét bất cứ ai. Nhờ có mẹ răn dậy cẩn thận như thế nên anh em chúng con, chưa hề biết gian dối hay ganh ghét ai bao giờ.
Mẹ chính thật có trái tim vĩ đại dành của chúng con (và cha nữa). Nhưng cha đã từ chối nhận, đã rũ bỏ mẹ và 4 anh em chúng con ngay sau khi đến được nước Mỹ, trong khi mẹ luôn nghĩ sẽ cùng cha sống đến già, yêu đến già ...
Thử hỏi có người nào không âu sầu, khi biết đứa con trai duy nhất, bị mắc căn bệnh nan y, không thể nối dõi tông đường. Mẹ cũng vậy, mẹ rất đau buồn và còn phải nhận thêm cay đắng khi “thuyền tình đã neo bến mới”. Dù đau buồn cay đắng, mẹ vẫn không hề biểu lộ sự giận dữ vì lòng mẹ rất nhân hậu, bao dung. Mẹ đã nói:
-Cha khổ nhiều vì CS rồi, đừng ép buộc cha thêm khổ sinh ra uất ức, la hét, chưởi rủa khi phải ở lại với chúng ta. Hãy để cha quyết định theo cách tốt nhất mà cha chọn. Nếu từ bỏ mẹ con mình mà cha hạnh phúc, thì hãy chấp nhận.
Tôi biết, mẹ nói vậy là để trấn an anh em chúng tôi và để che dấu cõi lòng tan nát, an phận chấp nhận quyết định của cha. Cách đây không lâu, mẹ nhờ cô bạn mở cho một địa chỉ e-mail, khi được hỏi mẹ chọn “password” là những chữ gì, mẹ đã nói ngay câu “đả đảo ông chồng” rồi mẹ và cô bạn cùng cười vang. Tôi cũng chua xót cười theo và thương mẹ hiền lành chỉ biết hô “đả đảo” khi cha tuyệt tình!
Cha ơi, hai mươi năm đã trôi qua, cha sống có hạnh phúc không, cha có toại nguyện với các em trai khôi ngô, khỏe mạnh “nối dõi tông đường”, cha có cõng các em trên lưng cha, như mẹ đã cõng con nhiều năm tháng trên lưng mẹ. Lưng mẹ êm đềm và ấm áp lắm, không biết lưng cha thế nào, con chưa một lần được cha cõng trên lưng, được vòng tay ôm cổ cha âu yếm, đấy là điều con mãi nuối tiếc. Và bây giờ thì con không còn có thể vòng tay ôm cổ cha được nữa, nếu như cha có về và muốn cõng con, khi hai cánh tay con thịt đã teo biến hết, chỉ còn da bọc lấy xương, lõng thõng và vướng víu khi mẹ tắm rửa, thay quần áo cho con. Khi con xử dụng computer, mẹ phải nhấc cánh tay khẳng khiu của con đặt lên bàn, cầm mấy ngón tay con đặt trên con chuột (mouse) kéo từng ngón vào vị trí chính xác thuận tiện nhất, để con có thể bấm xử dụng được dễ dàng. Tuy vậy, chốc chốc con lại gọi mẹ ơi, mẹ hỡi để mẹ chạy đến giúp, vì đẩy tới đẩy lui, con “mouse” đã chuồi ra khỏi tay con rồi, mà con không thể tự nắm bắt nó lại được.
Cha ơi, con chợt nhớ đến cha mà viết những dòng chữ này, nếu cha có tình cờ đọc được, xin hiểu lòng con, đứa con trai tàn tật thân xác từ thuở ấu thơ, luôn khao khát tình cha. Bởi vì tình mẹ dù có bao la, cũng không thể phủ trùm thay thế tình cha cho con. Con đã có “Ánh Sao Tình Mẹ”, con cũng muốn có những nốt nhạc cho tình phụ tử, là thật lòng con đấy!
Và hơn tất cả con luôn cảm tạ hồng ân Thiên Chúa, đã ban cho con đủ sức chịu đựng và "xin vâng" đón nhận mọi khổ đau và cho con còn sống đến hôm nay.
 
 Con xin tri ân nước Mỹ. Vinh danh mẹ. Tạ ơn cha. Cám ơn các em gái Trinh - Trâm - Bình và các cháu đã chăm ngoan, học giỏi thay anh, thay bác Triệu bù đắp, đóng góp tài sức cho gia đình, cho xã hội. Cám ơn các em rể thủy chung, mạnh mẽ, thẳng ngay như tùng như bách làm cột trụ vững chắc cho gia đình được tràn đầy hạnh phúc, luôn vang tiếng cười.
i hậu cho tất cả mọi người đã đối đãi tử tế với gia đình con, cách riêng  trong hoạn nạn. Đặc biệt cám ơn anh chị Cao Ngô An đã không quản ngại vất vả làm tài xế đưa mẹ đi chợ, giúp mẹ nấu nướng, đưa em đi khám bệnh, đi những nơi cần thiết, từ khi mẹ bị tai nạn xe hơi t được nữa. Em ơn anh nhiều lắm.

San Diego 3/3/11.

MINH TRIỆU






Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG

VẪN CÓ EM BÊN ĐỜI

Tan D.Nguyen

Huyen-Linh_GiaDinh.jpg
Linh,Huyền và bé Tiến tại nhà

 Huyền đẹp. Không phải tôi khen, mà nhiều anh bảo thế. Huyền mặn mà. Không phải tôi nịnh, mà vì nàng là gái một con. Huyền dễ thương. Không phải tôi cho là vậy, mà do giọng nói nàng ẩn chút gì đó nét hồn nhiên...




Linh có duyên. Không phải tôi khen, mà nhiều cô bảo thế. Linh phong độ. Không phải tôi nịnh, mà vì chàng mang dáng dấp của một công tử đại gia. Linh thông minh. Không phải tôi cho là vậy, mà do kiến thức về nhiều lĩnh vực qua cách nói chuyện của anh...



Đôi bạn trẻ gặp nhau. Tình yêu chắp cánh. Hôn lễ thật ấm cúng với họ hàng hai họ. Ai cũng khen “Cứ y như đại gia lấy hoa hậu chân dài”. Với hai trái tim, họ nắm tay nhau bắt đầu xây lâu đài tình ái...



* Nàng tập lái, chàng quẹo cua



Huyền chớp mắt kể: “Năm năm trước, em qua Cali với ba mẹ. Ai cũng khuyên một trong những việc đầu tiên phải làm khi đặt chân đến Mỹ là phải đi học lái xe. Có người giới thiệu, em ghi tên học ở văn phòng của anh Linh. Em nhát lắm, nên tập lái xe mà cứ run tay hoài, nhất là những lúc quẹo cua. Anh Linh la em hoài đó chứ. Nào là lúc quẹo cua, em phải thế này, thế nọ. Vậy mà...” - Huyền cười tinh nghịch – “Ảnh ‘quẹo’ hay quá nên ‘cua em dính’ hồi nào hổng biết nữa”.


Huyen-Linh-NgayCuoi.jpg


Huyền và Linh đẹp đôi trong ngày cưới – ảnh tài liệu gia đình.



Huyền tiếp: “Chúng em nghèo nhưng hạnh phúc lắm, nhất là sau khi bé Tiến ra đời. Thời gian đó công việc ở văn phòng anh Linh khá lắm, người học lái xe khá đông, công việc làm không kịp. Còn em thì làm nail, kiếm cũng khá nhiều tiền. Tụi em mua chiếc xe hơi mới toanh, anh Linh bảo em chở ảnh lái một vòng Bolsa lấy le cho vui. Ảnh còn nói: ‘Quẹo cua mà không xong là anh chấm rớt đó nhe’”.

Hạnh phúc tưởng chừng như mãi mãi...



* Có ai học được chữ Ngờ...

“Ngày hôm ấy, em nhớ mãi” - giọng Huyền trầm hẳn xuống. “Gửi con cho Má, hai vợ chồng kéo nhau ra Mile Square Park cắm trại. Tự dưng nổi hứng, em thách anh Linh chạy đua. Ảnh chấp em chạy trước. Em cắm đầu chạy thục mạng, vậy mà chưa gì đã nghe tiếng ảnh rượt kịp sau lưng, và rồi bỗng dưng, em nghe một tiếng ‘rầm’. Anh Linh vượt qua mặt em, thì chúi cổ nằm sóng soài trên bãi cỏ. Em tỉnh queo, vì em biết tính ảnh hay làm bộ để bà xã năn nỉ. Nhưng thấy ảnh nằm hơi lâu, và hình như có tiếng rên. Em bước tới nói to: ‘Dậy đi ông, làm bộ hoài’. Bỗng dưng anh Linh thều thào: ‘Kêu cấp cứu! Anh gãy cổ rồi, đau quá’. Em hoảng hồn bấm 911, và lát sau chúng em có mặt tại bệnh viện...”.


* Một quyết định - một cuộc đời

“Má và em chờ đợi trong thấp thỏm lo âu. Bác sĩ bước ra và cho biết là ‘Bệnh nhân bị gãy hai xương cột sống ở nơi cổ, cần phải mổ, nếu không sẽ chết’. Em lo lắm, nên ký giấy đồng ý mổ. Cả hai gia đình em và ảnh chỉ biết ngồi ngoài, khóc và cầu nguyện. Ca mổ không thành công. Bác sĩ bảo: ‘Bệnh nhân sẽ bị liệt cả toàn thân vĩnh viễn’. Em nghe như đất trời sụp đổ. Em khóc không thành tiếng. Tại sao ông Trời lại bất công đến vậy?



Họ chuyển anh qua khu vật lý trị liệu. Ngày nào em cũng ở cạnh anh, vừa dìu tập cho anh đi, tìm chuyện nói cho anh vui, vừa ráng nuốt ngược nước mắt vào trong. Hễ giây phút nào một mình là em khóc, và cầu nguyện. Hơn một năm thì nơi ấy gọi em lên, bảo em phải chọn một trong hai quyết định: ‘Một là đưa anh Linh vào viện dưỡng bệnh (nursing home), hai là đem về nhà, vì chính phủ không chi trả cho các trường hợp không còn hy vọng nữa’. Nhìn vào đôi mắt anh buồn vời vợi, không hồn, vô vọng, nên em đã không hề ngần ngại mà chọn ngay giải pháp thứ hai, vì ‘Một ngày, một buổi cũng là tình nghĩa vợ chồng’”.


 Lửa thử vàng, gian nan thử sức

“Khổ lắm chị ơi” - Huyền nói. “Anh Linh không tự làm được một việc gì, dù nhỏ nhặt nhất, như là tự lăn người, hay đi tiểu tiện. Cứ hai tiếng đồng hồ là em phải xoay người anh ấy, nếu không thì sẽ bị hầm và lở loét lưng. Tắm rửa, gội đầu, hốt cứt, thay tã, cũng chỉ một mình em. Chị nhìn xem” - Huyền giơ cao cho tôi xem bắp tay với “con chuột” mà các thanh niên thường tự hào gồng người khoe, và nói: “Trước kia anh Linh nặng 225 pound, vậy mà sau tai nạn thì sụt ký kinh khủng, nay chỉ còn 170 pound, mà em phải lăn qua lại như vậy 10 lần mỗi ngày, rồi còn đỡ ngồi lên, nằm xuống, nên bây giờ tay em thành lực sĩ rồi”. Huyền cười buồn...

Linh chợt kêu ngứa đầu. Huyền lật đật lấy cây lược đến chải đầu cho chồng. Linh cứ luôn miệng bảo: “Em ấn mạnh lên, mạnh nữa, ngứa quá. Em cào bên phải nè, rồi sau ót...”. Huyền làm theo như cái máy. Vừa làm cô vừa kể: “Cứ hai ngày là em phải gội đầu và tắm rửa cho ảnh. Chị nghĩ xem làm sao có thể xoay trở mà tắm?”. Tôi lắc đầu chịu thua. Huyền chỉ tôi xem một dụng cụ để ngoài sân, trông từa tựa như chiếc cần cẩu.



Huyền tiếp: “Em phải câu ảnh từ giường qua ghế ngồi”. Tôi thắc mắc: “Sức Huyền sao làm nổi?”. Huyền giải thích: “Em xoay người ảnh dựa lưng lên, phủ lên người ảnh cái áo đặc biệt này”. Huyền đưa tôi xem chiếc áo chằng chịt những dây, “xong móc một đầu cần cẩu vào chỗ đây, rồi bơm cái thanh sắt này, thì cần cẩu sẽ kéo ảnh lên cao, rồi sau đó em thả tay từ từ để cần cẩu hạ ảnh xuống ghế ngồi”.

Linh tiếp: “Lần đầu tiên khi bị câu như vầy, em khóc nức nở. Vừa buồn, vừa tủi, vừa nhục, cái cảm giác như mình là một con thú khiến em chỉ muốn được chết mà thôi. Em ráng cắn chặt môi mà nước mắt từ đâu cứ tự động lăn dài. Là người, ai cũng ráng bám víu để mà sống, dù cuộc đời có bất hạnh đến đâu. Chỉ riêng em, thì em lại cầu mong được chết”.

* Cái đau của bệnh nhân

Huyền đang nói thì bỗng dưng tay chân Linh co giật liên hồi. Tôi hơi sợ, vì lần đầu tiên nhìn thấy, nhưng Huyền bình tĩnh bước tới vịn tay chồng, như muốn truyền thêm can đảm cho anh đang trong cơn đau đớn. Linh cất tiếng: “Đau lắm. Một ngày tay chân giựt như vậy không biết bao nhiêu lần, em không sao làm chủ được. Bất lực!”. Linh thở dài tuyệt vọng: “Nhiều lúc em chỉ ước mình được chết cho xong...”

Huyền lại tiếp: “Sáng nào em cũng phải nhét vô hậu môn ảnh một viên thuốc để giúp làm mềm phân.

Rồi chừng vài tiếng đồng hồ sau thì thọt ngón tay trỏ vào, ngoáy vài vòng cho phân mềm đều, rồi móc ra đem đổ. Hôi thúi mấy em cũng chịu. Mà chưa hết đâu, ảnh không đi tiểu được, nên một ngày chừng hai, ba lần, em phải dùng que thọt giúp ảnh”. Thấy tôi có vẻ không hiểu, Huyền đưa tôi xem một bộ dụng cụ đặc biệt.

Cô giảng giải: “Em lấy cái ống này nè” - Huyền giơ lên một ống dài rỗng như cây hút (sinh tố) vậy, “đâm vô đầu bộ phận sinh dục, đẩy từ từ cho đến khi nào ống đụng bọng đái, khi đó em ấn thêm nữa thì nước tiểu xịt ra theo đường ống, vô túi nylon này, em gói lại mang đi đổ”. Linh tiếp lời vợ: “Đau kinh khủng, mỗi lần phải đi tiểu, đi tiêu là cực hình với em. Tù nhân có bị tra tấn cũng đến vậy là cùng. Lần nào em cũng cắn răng chịu trận, mà ngày ba bốn cữ như vậy, chịu không nổi nữa, khổ lắm”.

* Nỗi khổ của người chăm sóc

Huyền nói: “Mà chưa phải hết đâu, có những lúc cơ thể anh Linh lại tự đại tiện một mình, không sao biết trước được. Ban ngày ảnh mang tả, tối lạnh thì mặc quần. Có lúc ảnh đang nằm bỗng dưng cứt xịt ra ướt tèm nhẹp hết quần, dính cả lên giường. Thời gian đầu em còn cho ảnh mặc quần, mỗi lần vậy là em quăng luôn cái quần, nhưng rồi tiền đâu mà mua quần xoành xoạch, nên em đành phải mang quần ra giặt tay, rồi phơi lên cho mau khô.

Tủi thân lắm, cứ giặt quần là em nhớ Má, cả đời em chưa một lần giặt đồ cho Má, bây giờ thì mỗi ngày giặt quần cứt cho chồng, vậy mà không dám than, không dám khóc, sợ ảnh buồn. Nghĩ lại mà thương Má em. Bà cứ an ủi, động viên em. Chưa bao giờ Má bảo em bỏ cuộc. Má hay nói: ‘Đã là vợ chồng, sướng khổ có nhau, còn nước còn tát, hai con đừng tuyệt vọng’”.

Rồi Huyền khóc: “Năm ngoái Má em mất vì bệnh ung thư. Trước khi ra đi, Má nắm tay em căn dặn, ‘Má đi trước nhe hai con. Con ráng mà lo cho thằng Linh. Má ra đi vì căn bệnh nan y, nhưng vẫn còn sướng hơn nó, thôi vợ chồng con ở lại ráng đùm bọc lẫn nhau’. Chỉ có Má là người hiểu nỗi khổ của em nhất”.

Huyền lại nói: “Gần bốn năm nay, chưa đêm nào em ngủ được một giấc đầy. Cứ hai, ba tiếng là thức dậy, chạy qua phòng xoay người ảnh. Có lúc mệt quá, em ngủ vùi, không nghe tiếng ảnh gọi em qua vì đau quá. Chị nhìn mắt em nè, lúc nào cũng sưng húp, quầng thâm, em chỉ sợ một ngày nào đó thì sẽ bị mù luôn. Bao nhiêu ngày tháng nuôi chồng, là bấy nhiêu đêm nước mắt chung tình em rơi”.

* Nguyện cầu

Huyền chỉ tôi xem tờ giấy “Cảm tạ công đức” treo trên tường, và nói: “Tụi em đâu giàu có gì, vậy mà hễ có ai về Việt Nam là em ráng dồn hết tiền đang có nhờ họ đem về cúng chùa. Mà em ghi tên ảnh không hà, mong ảnh được phước mà mau hết khổ. Nhiều lúc chỉ cúng dường có 1, 2 đồng, em cũng khấn cầu có phép lạ nào giúp chồng bớt khổ, chứ nhìn ảnh đau đớn mỗi ngày, em không chịu nổi nữa. Đã hơn ba năm rồi, nhiều lúc khổ quá em muốn quăng bỏ hết mọi thứ, tự tử cho xong, nhưng nhìn bé Tiến lại thương.

Gần bốn tuổi, nó nào được đến trường, cứ quanh quẩn ở nhà vì nếu đi học thì ai chở đi ai đón về, em phải túc trực bên chồng 24 trên 24. Ai cũng bảo đó là nghiệp của em và của ảnh, chính vì vậy mà nghèo đói cách mấy tụi em cũng ráng giúp làm từ thiện chỉ mong mau hết nghiệp. Ai chỉ gì tụi em cũng làm, tụng kinh Dược Sư, Chú Đại Bi, niệm Phật. Nhưng giờ thì...”. Huyền im lặng. Chừng một phút sau, cô nói tiếp với giọng yếu ớt hẳn đi: “Mỏi mệt, tuyệt vọng và chỉ muốn buông xuôi. Đúng thật đời là bể khổ...”.

* Kinh nghiệm chia sẻ

Linh lên tiếng nhờ vợ giúp trở mình, rồi sau đó anh bảo Huyền đỡ dùm lên để anh dựa lưng vào thành giường. Anh ngồi đó, trân trân nhìn lên tường, không nói một tiếng. Tôi đến bên Linh, bắt chuyện: “Nằm thế này hơn ba năm rồi, chắc Linh có nhiều thời gian ngẫm nghĩ về mọi chuyện, Linh có thể chia sẻ chút được không?”. Linh nhếch miệng khó nhọc: “Buồn, khổ, nhục, uất, hận... trăm ngàn cảm xúc khác nhau.

Ba năm, đủ dài phải không chị? Nhưng vẫn còn quá ngắn với cả cuộc đời bại liệt còn đăng đẳng trước mặt. Giờ thì hết rồi, không có cảm xúc, cũng chẳng phiền trách gì. Chỉ chấp nhận, vậy thôi...”. Tôi im lặng. Linh tiếp: “Em cũng muốn nói vài điều như thế này: Em tuy liệt cả toàn thân nhưng đầu em rất tỉnh táo. Em xem tivi để giết thời gian, nên em biết là kinh tế đang xuống dốc thê thảm. Nhưng tất cả những ai đang mất việc, mất nhà, khai phá sản..., kể cả những ai từng bị stroke và nếu chẳng may bị bán thân bất toại, hãy bảo họ đến gặp em, để họ hiểu ra rằng họ vẫn còn may mắn hơn em nhiều lắm.

Đã rất nhiều lần em có ý nghĩ tự tử, nhưng không sao thực hiện nổi vì tay chân mình không tự cử động gì cả thì còn làm gì được. Em ước gì có ai đó giúp dùm cho em chết đi, thì em sẽ mang ơn họ. Có những buổi sáng, mở mắt ra em đã khóc, chỉ vì tại sao mình lại tiếp tục sống, tại sao ông trời không thương mà cho em ngủ một giấc ngàn thu. Khi tai nạn xảy ra, em mới hơn ba mươi, còn sung sức lắm.

Em chơi tennis, sức voi ăn no quậy mạnh, nên em rất ỷ y về sức khỏe. Nhiều năm trước em nhận thấy mình hay bị chứng hụt hơi, hễ mà làm gì hơi nặng hay quá sức là phải thở hổn hển, có lúc phải ngừng hẳn lại để thở, nhưng em cứ cho là không sao đâu, nên không bao giờ có ý đi khám bác sĩ. Hôm đó ở Mile Square Park chạy đua với Huyền, khi cố vượt qua vợ, em bị hụt hơi, nhưng không lẽ chịu thua mà ngừng lại sao. Thế là em cố ráng chạy vượt qua mặt Huyền. Vừa xẹt qua thì em không thở được nữa, trời đất tối sầm, em té chúi nhủi đâm đầu xuống bãi cỏ, chỉ kịp nghe tiếng ‘rắc’.

Chừng lát sau mở mắt ra thì thấy đau nhức nhối từ chỗ ót đi xuống dọc theo cột sống rồi đến cả bàn chân, không sao nhúc nhích gì được nữa. Em ú ớ kêu Huyền gọi cấp cứu. Giờ nhớ lại hối hận lắm thì đã muộn quá rồi...”.

* Nỗi lòng biết tỏ cùng ai?

Giọng Linh bỗng dưng nghẹn lại: “Chị hỏi thì cho em nói. Có lẽ lời em nói ra đây cũng không ai thèm để ý. Em tức và buồn lắm...”. “Chuyện gì vậy Linh?”. Tôi nhỏ nhẹ hỏi.

“Khi được chở vào bệnh viện cấp cứu, em gần như bị liệt cả người, kể từ cổ trở xuống rồi, vì không sao cử động được gì hết cả, nhưng chỉ trừ cái đầu. Lúc đó em vẫn còn tỉnh táo. Em hỏi bác sĩ về bệnh trạng mình.

Ổng bảo: ‘Cậu cần mổ gấp. Nếu không mổ cậu chắc chắn chết, còn mổ thì hy vọng sống’. Hỏi chị, nếu chị là em thì chị chọn cái nào?”. Tôi đáp ngay: “Dĩ nhiên là chọn mổ để được sống”. Huyền xen vô: “Sao anh cứ nói hoài chuyện này vậy? Thôi chị đừng nghe nữa...”. Tôi vừa thắc mắc vừa tò mò: “Chuyện gì vậy Huyền? Để Linh nói hết đi đã”.

Tự dưng Huyền quay sang chồng: “Anh à, hôm đó bác sĩ có cho em và Má biết về hiện trạng của anh, và em đã quyết định, chứ đâu phải bác sĩ quyết định cho anh đâu mà anh cứ nói hoài...”. Linh vặn lại vợ: “Thế bác sĩ nói với em và Má sao đâu, em nhắc lại cho anh nghe đi”. Huyền nói rõ từng câu: “Bác sĩ bảo em với Má là anh bị gãy xương cổ C4 và C5, cần phải mổ gấp, nếu không thì anh chết, nếu mổ thì xác suất 80 hay 90% sẽ cứu được anh”. Linh la lên: “Đó đó, chị nghe rõ chưa? Nói chuyện với một cô gái trẻ trình độ trung học như vợ em và một bà già như Má, mà bác sĩ nói C4, C5 thì ai hiểu là gì? Tại sao không giải thích cho rõ ràng là C4, C5 nằm ở đâu trên cột sống từ cổ trở xuống, và hai đốt xương này có vai trò quan trọng như thế nào?

Rồi tại sao lại chỉ nhấn mạnh ở chỗ ‘Mổ thì sống 80, 90%, còn không mổ thì chắc chắn là chết’? Bác sĩ lẽ ra phải nói cho bệnh nhân và gia đình hiểu rõ là ‘Nếu ca mổ không thành công, thì người bệnh sẽ bị như thế nào? Tàn tật ra sao và mức độ tàn tật như thế nào, kéo dài bao lâu?’. Nếu biết trước là mổ không thành công mà phải sống dở chết dở như thế này thì em đã chọn được chết lúc đó rồi. Còn nếu như vì ham sống mà em chọn mổ thì dầu có bị tàn phế em cũng chịu, vì đó là quyết định của mình, còn đằng này, cứ nói vậy mà hại cả đời em, thì ai chịu khổ dùm cho em?”.
Huyen-Linh-6.jpg

Linh đang ăn sáng với sự giúp đỡ của nhân viên trị liệu – ảnh tài liệu gia đình.

Tôi nhìn Linh, đôi mắt anh vừa đau xót pha lẫn chút trách hờn. Huyền nói vội vàng, có lẽ để giảm bớt phần nào không khí không vui: “Thôi mà anh, bác sĩ cũng đã hết lòng mổ giúp cho anh rồi, sao anh cứ trách hoài vậy?”. Linh ngắt lời vợ: “Giúp?”. Quay qua tôi, Linh nhẹ giọng: “Mà thôi, nói ra được với chị thì em cũng cảm thấy nhẹ nhõm phần nào rồi...”.

Nói xong, Linh thở hắt ra rồi quay mặt vô vách. Huyền lật đật kéo tôi qua phòng bên: “Qua đây chơi chị, có chuyện đó mà ảnh cứ ấm ức nói hoài. Đây là phòng em với bé Tiến nè”. Tôi nhìn gian phòng nhỏ của hai mẹ con, đồ đạc vất lung tung. Huyền kể lả: “Thằng nhóc phá lắm, có một mình buồn nên nó cứ đòi Mẹ chơi chung, mà em làm gì có thời gian. Phòng này em cũng không có giờ dọn dẹp nữa, cả ngày cứ quần quật, tối đến đặt lưng xuống là ngủ ngay vì đừ quá, nhưng hai, ba tiếng sau là em lại dậy, quen rồi, chạy qua xoay người cho ảnh”.

* Kiếp hồng nhan

Tôi đứng tần ngần nhìn vài bức ảnh chụp lúc Huyền còn đi học, treo trên tường, gương mặt rất có nét với nụ cười thật tươi, cứ như một người mẫu. Tôi hỏi: “Có ai nói với Huyền là Huyền đẹp không?”. Cô bẽn lẽn: “Sao chị nói giống mấy đứa bạn em quá vậy? Hồi xưa đi học, các bạn cứ khen em hoài đó chứ”. Huyền có vẻ mắc cỡ. “Ai cũng chọc em là người mẫu chân dài. Tụi nó còn xúi em dự thi nữa. Mà em không dám, tại mình đâu biết khéo ăn nói để trả lời các câu hỏi đâu mà thi”. Tôi cười: “Chỉ cần cái tâm mình là được rồi, Huyền đẹp cả nết lẫn người, đó là điều rất quý”. Giọng Huyền bỗng dưng tư lự: “Em còn nhớ, lúc ở Việt Nam , dì em hay nói, ‘Con gái mà xấu quá cũng khổ, nhưng đẹp cũng chưa hẳn là sướng’. Còn Má em thì lo lắm, bà cứ nói, ‘Hồng nhan thường bạc phận, đẹp chưa hẳn là hạnh phúc đâu con’”. Rồi mắt Huyền ươn ướt: “Chắc chị biết truyện Kiều chứ hả? Nếu giờ mà cho em được chọn, em sẽ chọn là Thúy Vân, vậy mà đời đỡ khổ...”.

Tôi hỏi: “Có bao giờ Huyền nghĩ đến việc mướn một người phụ lo cho Linh không?”. “Có chứ”, Huyền thở dài. “Nhưng tiền trợ cấp của chính phủ quá ít ỏi, nếu em tiếp tục làm nail thì khá giả hơn nhiều. Đằng này em ở nhà lo cho chồng, số tiền đó mà dùng hết để mướn người cũng không ai chịu làm, vì cực quá. Nói thật, có nhiều đêm quá mỏi mệt, em nằm khóc một mình, và cũng đã hơn một lần em nghĩ đến việc gửi anh Linh vào nursing home, nhưng...”. Huyền bỏ lửng câu nói...

“Nhưng sao hở Huyền?”. Tôi hỏi.

“Chị có nghe bài nhạc này bao giờ chưa?”. Thế là Huyền ca nho nhỏ:

“... Vẫn thấy bên đời còn có em


Tấm lòng em như lá kia còn xanh


Rừng ơi hãy giữ cho bền nhé


Những cánh hoa phai quá không đành...

Khi xưa em rất thích bài này. Giờ mỗi lần hát, em lại thấm vô cùng từng câu chữ, nhất là: ‘Những đóa hoa phai quá không đành’. Đã là vợ chồng, nên ‘phai quá không đành’, chị ạ...”.

* Vẫn chỉ là mơ ước

“Em ơi!”.

Tiếng Linh gọi. Hai chúng tôi chạy sang. “Cho anh miếng nước, khát quá!”. Huyền mang ly nước cam, đưa tận miệng và cầm nghiêng cái ly cho chồng uống.

Tôi hỏi: “Hai em có mong ước gì không? Có bất mãn gì với cuộc sống hiện tại?”. Huyền nhỏ giọng: “Nhiều người nói em ngu, có người lại khen em là phụ nữ Việt Nam tuyệt vời, nhưng em không màng đến những danh từ đó.

Thật lòng, em lo cho chồng chỉ vì chữ ‘nghĩa’. Nhưng cũng không biết mình sẽ gánh nổi trong bao lâu nữa. Chị nhìn hình em ngày xưa với em bây giờ, có phải là khác xa nhiều quá? Tóc em đã có nhiều sợi bạc, hai mắt quầng thâm, cả người phờ phạc. Mỏi mệt lắm chị ạ, vì đuối sức và mất ngủ kinh niên. Bé Tiến còn phải đi học, em sẽ phải đưa đón cháu. Đến một lúc nào đó mà sức em có hạn, thì em cũng phải buông xuôi thôi. Khi rời khu vật lý trị liệu, nhân viên trong đó có giới thiệu tụi em chiếc giường đặc biệt dành cho những bệnh nhân như anh Linh vậy. Mình vặn trước sẵn giờ giấc, cứ hai hay ba tiếng thì giường tự động nâng lên, xoay sang trái, rồi sang phải, trong mọi tư thế mà bệnh nhân và người chăm sóc không cần phải làm gì cả. Nhiều lúc em đuối sức quá, xoay ảnh không nổi, nên em có hỏi thăm thì được biết là cái giường này giá gần ba chục ngàn Mỹ kim, thế là tụi em không bao giờ dám mơ nghĩ tới nữa, bởi vì chiếc xe hơi mới mà em kể lúc nãy, sau khi anh Linh bệnh hơn một năm thì bị nhà băng kéo luôn rồi, tiền đâu mà trả”.

Huyền kể: “Tụi em cứ còn nước còn tát. Tiền dành dụm được bao nhiêu, đem ra thử hết. Châm cứu, bấm huyệt, trị bằng nhân điện, gặp bác sĩ chỉnh hình, uống thuốc nam, thuốc bắc, ai chỉ gì cũng làm theo. Vậy mà sạch hết tiền mà bệnh vẫn vậy. Cái nghèo cứ đeo đuổi mãi. Giờ thì chính phủ gửi giấy báo là sẽ cắt tiền nữa, em không biết phải tính sao, thôi thì cứ để trời tính”.

Linh cười buồn bã: “Phần em, em chỉ hối hận vì đã không làm được hết những điều mình mong muốn. Tuổi ba mươi lúc ấy, em có nhiều mơ ước lắm. Trong mắt em, cuộc đời là một con đường phẳng lặng ngập ánh nắng hồng. Hơn ba năm nằm một chỗ, ngẫm nghĩ lại mới thấm thía hai chữ ‘Vô thường’”.

“Bạn bè, gia đình có đến thăm Linh thường không?”

“Lúc đầu cũng có một số người đến thăm, giờ thì chẳng còn ai. Người nào cũng bận mà, em hiểu. Chỉ còn mấy thằng homeless ngày xưa em giúp tụi nó, nên tụi nó thỉnh thoảng ghé thăm, nói chuyện này nọ cho em đỡ buồn. Chị biết đó, những đứa này bạc tiền thì không có, chỉ có dư dả thời gian và tấm lòng...”.

Với giọng đều đều, Linh bảo: “Em cũng đã xin ghi tên vô danh sách các bệnh nhân tình nguyện cho được thử nghiệm một phương pháp cấy ghép tế bào gốc (stem cell) mà công ty Gerone đang nghiên cứu, với hy vọng có thể tạo ra các tế bào mới để thay thế các tế bào nơi cột xương sống đã gãy. Em đã khẩn thiết xin được làm người thí nghiệm, bởi vì nếu thí nghiệm thành công, thì em còn hy vọng sống, dù vẫn biết là rất mong manh, còn nếu thất bại, thì em được chết. Với em, bây giờ, được chết lại là một hạnh phúc mà em ao ước...”.

“À, quên”. Linh tiếp. “Em đã quyết định là sau khi chết, em tình nguyện cho phép bệnh viện sử dụng tất cả những bộ phận trên cơ thể mình còn dùng được, hiến tặng hết cho những ai đang cần. Cả đời em đã làm khổ vợ con, là gánh nặng cho xã hội, nên chỉ mong lúc ra đi là cơ hội cho em được đền đáp những công ơn đó”.

Huyền nãy giờ loay hoay dưới bếp, cô bưng chén cháo nóng lên và múc từng muỗng đút cho chồng, nói nửa đùa nửa thật: “Hồi xưa Hàn Mặc Tử thời oanh liệt thì bao nhiêu cô bồ, đến chừng tật nguyền thì chỉ còn có mỗi một Mộng Cầm lo lắng.

Ông này cũng vậy, giờ nằm một đống thì cũng chỉ mỗi Mộng Huyền này lãnh hết. Thôi, cứ coi như là mình có duyên có nghiệp với nhau. Anh tụng Chú Đại Bi, em niệm Phật, mong Quan Thế Âm thương giúp tụi mình mau chuyển nghiệp, thôi còn sống thì mình phải ráng hy vọng, nhe anh...”.

Thấy Huyền vui, tôi nói: “Để xem, bài viết về hai em, mình lấy tựa đề là ‘Mãi có em bên đời’, được hôn?”.

“Đừng chị”. Linh ngắt ngang. “Bỏ chữ ‘Mãi’ đi. Cuộc đời này không có gì là mãi mãi hết”.

“Anh này, sao mà kỳ quá!”. Huyền nhăn mặt nhìn chồng, rồi quay qua tôi: “Chị đừng để ý, ảnh giờ khó tính lắm”.

“Không sao”. Tôi đáp. “Vậy thôi ‘Vẫn có em bên đời’, được không Linh?”.

Linh cười. Tôi thấy mấy đầu ngón tay anh run run. Huyền hiểu ý, để chén cháo lên bàn, bước đến nắm lấy bàn tay anh. Linh bảo: “Thôi vô thường đến lúc nào thì cứ đến. Nhưng giờ phút này, đã hơn ba năm, vẫn còn có em bên cạnh, thì đối với anh đã là một hạnh phúc. Cám ơn em”.

Huyền nhìn Linh, nhoẻn miệng cười. Tôi thấy ánh mắt cô lấp lánh niềm vui, dù chỉ là một niềm vui nhỏ, khi mỗi ngày sống bên cạnh một nỗi đau lớn trong lòng...

Được biết sinh nhật Huyền trùng với ngày Lễ Tình Yêu, bài viết này thân tặng Huyền - cô gái Việt Nam đẹp cả người lẫn nết. Món quà nhỏ, như một lời nhắn nhủ, rằng hai em “hãy khoan, đừng tuyệt vọng”:

Mỗi vết thương lành một nỗi vui


Hy vọng mong manh giữa khe bàn tay


Dù em khẽ khóc không thành tiếng


Vẫn ở trong anh nỗi đau dài...
Huyen-Linh-2.jpg
Chiếc cần cẩu của Linh

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2011

CẢNH XUÂN


BÀI THƠ ĐỌC NGƯỢC THẦN TÌNH




Bài thơ này được truyền tụng khá lâu nhưng chưa biết tên tác giả và năm sáng tác. Bài thơ làm theo thể Đường luật, bảy chữ tám câu, luật trắc vần bằng (tổng cộng 56 chữ). Bài thơ đọc ngược hay đọc xuôi đều có nghĩa và đúng niêm luật thơ Đường, còn gọi là “thuận nghịch độc”.



1.

Bài thơ gốc:

Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời


Thú vui thơ rượu chén đầy vơi


Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc


Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi


Qua lại khách chờ sông lặng sóng


Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người


Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng


Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.

2.

Đọc ngược bài gốc từ dưới lên, ta được bài thơ thứ 2:

Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha


Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa


Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược


Sóng lặng sông chờ khách lại qua


Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá


Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa


Vơi đầy chén rượu thơ vui thú


Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu từ bài thơ gốc đã biến hóa thành 6 bài thơ khác nữa cũng rất hay và đúng niêm luật. Đặc biệt có bài thơ rất mới, rất hiện đại. Chúc quý vị đón Xuân vui vẻ cùng với những bài thơ Xuân diệu kỳ này.

3.

Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta được bài thơ thứ 3 (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):

Cảnh xuân ánh sáng ngời


Thơ rượu chén đầy vơi


Giậu trúc cành xanh biếc


Hương xuân sắc thắm tươi


Khách chờ sông lặng sóng


Thuyền đợi bến đông người


Tiếng hát đàn trầm bổng


Bóng ai mắt mỉm cười.

4.

Bỏ 2 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta được bài thơ thứ 4 (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):

Mắt ai bóng thướt tha


Đàn hát tiếng ngân xa


Bến đợi thuyền xuôi ngược


Sông chờ khách lại qua


Sắc xuân hương quyện lá


Cành trúc giậu cài hoa


Chén rượu thơ vui thú


Ánh xuân cảnh mến ta.

5.

Bỏ ba chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ta được bài thơ thứ 5 (tám câu x bốn chữ):

Ta mến cảnh xuân


Thú vui thơ rượu


Hoa cài giậu trúc


Lá quyện hương xuân


Qua lại khách chờ


Ngược xuôi thuyền đợi


Xa ngân tiếng hát


Tha thướt bóng ai.

6.

Bỏ ba chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta được bài thơ thứ 6 (tám câu x bốn chữ):

Cười mỉm mắt ai


Bổng trầm đàn hát


Người đông bến đợi


Sóng lặng sông chờ


Tươi thắm sắc xuân


Biếc xanh cành trúc


Vơi đầy chén rượu


Ngời sáng ánh xuân.

7.

Bỏ bốn chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta được bài thơ thứ 7 (tám câu x ba chữ):

Ánh sáng ngời


Chén đầy vơi


Cành xanh biếc


Sắc thắm tươi


Sông lặng sóng


Bến đông người


Đàn trầm bổng


Mắt mỉm cười.

8.

Bỏ bốn chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta được bài thơ thứ 8 (tám câu x ba chữ):

Bóng thướt tha


Tiếng ngân xa


Thuyền xuôi ngược


Khách lại qua


Hương quyện lá


Giậu cài hoa


Thơ vui thú


Cảnh mến ta.

Đinh Quang Tỉnh sưu tầm và giới thiệu


Xem một bài khác


Sang Xuân
 

(thuận nghịch độc)



đọc xuôi:



Xuân sang cảnh sắc rực ngàn hoa


Nhạc suối hòa vui thú hát ca


Nâng nhẹ bước chờ người dạo phố


Đến tìm ai gọi tiếng vang nhà


Sân treo liễn viết lời thân chúc


Cửa mở tay mời giọng thiết tha


Tân khách đón chào đêm gióng hội


Thân tình giữ chặt kết gần xa






đọc ngược:






Xa gần kết chặt giữ tình thân


Hội gióng đêm chào đón khách tân


Tha thiết giọng mời tay mở cửa


Chúc thân lời viết liễn treo sân


Nhà vang tiếng gọi ai tìm đến


Phố dạo người chờ bước nhẹ nâng


Ca hát thú vui hòa suối nhạc


Hoa ngàn rực sắc cảnh sang xuân



Đông Hòa