Thứ Tư, 12 tháng 1, 2011

Giới Thiệu Tổng Quan Về Giáo Phận Bùi Chu

(Tài liệu này ghi nhiều tin tức về sự hình thành của giáo xứ Liên Thủy)

Nguồn Thánh ca Việt Nam

I.Bùi Chu cho đến bây giờ vẫn được coi là nơi đầu tiên đón nhận Tin Mừng tại Việt Nam:

                                   Nhà thờ Bùi Chu

Gia-tô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân danh Y-nê-xu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thuỷ chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô tả đạo truyền giáo - Tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Ynêxu lén lút đến làng Trà Lũ huyện Giao Thuỷ, ngấm ngầm truyền tả đạo Giatô” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XXXIII, tờ 5-6; cf. quyển XLI, tờ 24-25). Những dòng lịch sử tuy vắn gọn, nhưng lại là lời mở đầu rất đẹp cho dòng lịch sử Giáo hội Việt Nam và đặc biệt Giáo phận Bùi Chu.



Thêm vào trang sử của Giáo hội Việt Nam, trong số 117 vị thánh chứng nhân Việt Nam: có 26 vị sinh quán tại Bùi Chu và 18 vị phục vụ tại Bùi Chu, như vậy giáo phận Bùi Chu có 44 vị thánh đại diện 514 tôi tớ Chúa và khoảng 16.500 người đã chết để làm chứng cho Chúa thuộc hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận Bùi Chu.



Từ năm 1640-1954, Bùi Chu là vùng truyền giáo, sau đó trở thành giáo phận có diện tích nhỏ nhất, nhưng có số giáo hữu đông nhất trong Giáo hội Việt Nam. Quá trình lịch sử này được tóm lược như sau:



Năm 1659, Toà Thánh chính thức thành lập hai giáo phận tại Việt Nam thì vùng đất Bùi Chu đã có đông giáo hữu thuộc giáo phận Đàng Ngoài do các thừa sai dòng Tên phục vụ, từ năm 1676 thêm các cha Đa Minh.



Ngày 19-2-1670, Đức cha P. Lambert de la Motte lập dòng Mến Thánh Giá và chủ lễ khấn dòng cho hai chị Phaolô và Anê tại họ Bắc Câu, xứ Kiên Lao. Cũng năm 1670, Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất trong giáo phận Đàng Ngoài và cha Simon Kiên (nguyên quán) phục vụ rồi qua đời tại đây (1671-1673).



Năm 1679, giáo phận Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài do Đức cha Jacques de Bourges cai quản, giáo phận Đông Đàng Ngoài do Đức cha F. Deydier Phan cai quản. Suốt thời gian 1679-1848, toà giám mục thường được đặt tại Lục Thuỷ Hạ (nay là Liên Thuỷ), Trà Lũ, Trung Linh, Bùi Chu.

Năm 1848, Toà Thánh chia đôi giáo phận Đông Đàng Ngoài: một giữ tên cũ giáo phận Đông và một lấy tên giáo phận Trung do Đức cha Domingo Marti Gia coi sóc. Gọi là Trung vì nó nằm giữa giáo phận Đông và Tây. Giáo phận mới tuy hẹp đất nhưng số giáo hữu đông gấp ba lần giáo phận cũ. Giáo phận Đông có 45.000 tín hữu, giáo phận Trung có tới 139.000 tín hữu.



Năm 1858, Đức cha Valentin Berrio Ochoa Vinh và cha chính Emmanuel Rianõo Hoà dâng giáo phận cho Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và hứa sẽ xây dựng một nhà thờ khang trang để kính Đức Mẹ. Sau nhiều lần xây dựng, đền thánh Phú Nhai hiện nay (xức dầu thánh hiến trọng thể vào ngày 7-12-1933) là chứng tích tình Mẹ che chở giáo phận và lòng yêu mến của toàn thể con cái Bùi Chu đối với Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.



Ngày 3-12-1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đều được Toà Thánh đổi tên theo địa hạt hành chính nơi đặt toà giám mục, nên giáo phận Trung được đổi thành giáo phận Bùi Chu do Đức cha Pedro Munõagorri Trung coi sóc.



Năm 1936, Toà Thánh chia giáo phận Bùi Chu thành hai: một giữ tên cũ Bùi Chu do Đức cha Đôminicô Maria Hồ Ngọc Cẩn coi sóc, một lấy tên giáo phận Thái Bình.



Năm 1960, giáo phận tông toà Bùi Chu được nâng lên giáo phận chính toà do Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh coi sóc.



*Sắc chỉ thành lập



Việc thành lập giáo phận Bùi Chu đã được Toà Thánh chính thức ban sắc ba lần:



- Trước hết, ngày 5-9-1848 với Sắc lệnh Apostolatus Officium, Đức Giáo hoàng Piô IX công bố chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai: giáo phận Trung (Bùi Chu) gồm hai tỉnh Hưng Yên, Thái Bình và 2/3 tỉnh Nam Định. Phần còn lại mang tên cũ là giáo phận Đông.



- Ngày 3-12-1924, lễ Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo, thể theo nguyện vọng của các đấng bản quyền Đông Dương, qua Sắc lệnh Ordinarie Indosinensis, Đức Giáo hoàng Piô XI đã đổi danh xưng địa dư ra danh xưng địa phương: giáo phận Trung ra Bùi Chu, giáo phận Đông ra Hải Phòng, giáo phận Tây ra Hà Nội.



- Ngày 9-3-1936, một biến cố lịch sử vẻ vang, cũng Đức Giáo hoàng Piô XI đã ban Sắc Proecipuas inter Apostolicas quyết định chia giáo phận Bùi Chu, lấy lãnh thổ tỉnh Thái Bình và Hưng Yên để thành lập giáo phận Thái Bình. Phần còn lại vẫn giữ nguyên tên giáo phận Bùi Chu và được trao cho hàng giáo sĩ bản quốc coi sóc. Thế là lịch sử giáo phận Bùi Chu đã sang trang mới.


Đức Giám mục hiện nay: Sau 2 năm trống toà (1999-2001), hiện nay Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, S.D.B., được Toà Thánh bổ nhiệm làm giám mục coi sóc giáo phận ngày 14-7-2001.





II. ĐỊA LÝ VÀ DÂN SỐ 1. Ranh giới:



Giáo phận Bùi Chu hiện nay nằm gọn trong tỉnh Nam Định (NĐ), bao gồm sáu huyện (Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng) và khu vực xứ Khoái Đồng thành phố NĐ. Phía Đông Bắc là giáo phận Thái Bình, phía Tây Bắc là sông Đào nối sông Hồng với sông Đáy phân ranh giới với giáo phận Hà Nội, và phía Tây Nam là giáo phận Phát Diệm và phía Đông Nam là biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Diện tích 1.352km2.



Dân cư: tổng dân số địa phương trong 6 huyện và khu vực xứ Khoái Đồng thành phố Nam Định thuộc giáo phận Bùi Chu: 1.428.658 người. Số dân Công giáo 386.148, chiếm tỷ lệ khoảng 27%. Giáo phận thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ nên 100% là dân tộc Kinh.



Nghề nghiệp: khoảng 84% làm nông nghiệp, 5% làm muối và đi biển, 11% làm nghề thương mại, cơ khí, kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp…



Những con sông cần nhớ: hai con sông Hồng và sông Đáy tựa như hai cánh tay khoẻ bao bọc lấy giáo phận Bùi Chu, cung cấp nước và phù sa cho những cánh đồng phì nhiêu màu mỡ. Nhờ thế tạo nên khu vực rất trù phú, dân cư đông đúc, sống hiền lành chất phác. Đây thật là môi trường thuận lợi cho việc đón nhận và phát triển Tin Mừng. Ngoài ra, con sông Ninh Cơ, một nhánh của sông Hồng, nằm giữa giáo phận, tuy không lớn bằng hai sông trên nhưng có vai trò rất quan trọng. Ngoài việc đưa nước và phù sa đến tất cả các huyện, nó còn là trục giao thông rất thuận tiện nữa. Những con sông trên đều in đậm dấu vết những cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của các nhà truyền giáo.

Không có nhận xét nào: