Hiển thị các bài đăng có nhãn tài liệu về Liên Thủy. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tài liệu về Liên Thủy. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2014

LỊCH SỬ ĐỊA PHẬN BÙI CHU


Lịch Sử Ðịa Phận Bùi Chu

L.M. Trần Ðức Huynh

Lời giới thiệu: Linh mục Andrew Trần Ðức Huynh (h1) sinh ngày 23 tháng 11 năm 1920. Ði tu từ thuỏ nhỏ và chịu chức linh mục ngày 4 tháng 8 năm 1947 tại nhà thờ chính toà Bùi Chu do đức cha Hồ Ngọc Cẩn chủ phong. Hai năm đầu đời làm linh mục, cha Huynh đã làm phó xứ làng Lạc Ðạo huyện Nghĩa Hưng. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường trung học công lập Hồ Ngọc Cẩn tại Bùi Chu từ 1949-1954.
Ngài đã đưa trường Hồ Ngọc Cẩn cùng toàn ban giám đốc di cư vào Nam đặt tại Gia Ðịnh cho tới năm 1956.

Từ 1957 tới 1959 LM Huynh dạy triết học tại chủng viện Phan xi Cô, Sài Gòn. Tới năm 1959 Ngài đề xướng thành lập trường trung học Hưng Ðạo (125 Cống Quỳnh Saigon) và làm giám đốc cho tới năm 1975.

Linh mục Huynh tị nạn tại giáo phận Lafayette, Lousianna từ 1975 dến tháng 2 1976. Sau đó chuyển sang tiểu bang Texas và giúp giáo dân VN tại San Antonio cho đến năm 1978. Hiện LM Huynh đang hưu trí tự túc và vẫn thuộc giáo phận San Antonio Texas.

Bài viết sau đây được trích ra từ "Kỷ yếu địa phận Bùi Chu" phát hành tại Hoa Kỳ năm 1984. Cha Huynh đã tốn rất nhiều công sức để tra cứu các tài liệu hiếm có tại Thư viện Roma cũng các sử liệu khác. Vì vậy xin mạn phép Cha Huynh để được ghi lại trong cuốn gia phả này để nói lên lòng trung thành và kiên cường giữ đạo của cha ông các con cháu gốc Bùi Chu nói riêng và người công giáo VN nói chung.

Hầu hết anh em Bùi Chu đã xa địa phận Mẹ ngay từ năm 1954 trong cuộc ra đi tìm tự do lần thứ nhất xa lánh Cộng Sản từ Bắc vào Nam Việt Nam. Ngoài ra còn có rất nhiều bạn trẻ sinh tại miền Nam VN không biết Ðịa phận Mẹ ngoài Bắc VN ra sao, nhất là các em sinh tại hải ngoại thì càng cần biết nguồn gốc của mình.

Nhưng ngồi ở Mỹ, viết lịch sử của một địa phương VN quả là khó khăn. Vì tài liệu qúa chuyên biệt lại thuộc phạm vi tôn giáo, rất khó tìm tại các thư viện Mỹ. Chúng tôi phải nghĩ ngay tới cha Ðinh Ðức Ðạo, một linh mục Bùi Chu, hiện là giáo sư mấy Ðại học Công giáo tại La Mã. Dù quá bận bịu với việc giảng huấn, cha cũng dành ít thì giờ chụp lại và chuyển cho chúng tôi một số tài liêu và hình ảnh cần thiết về Bùi Chu tại thư viện bộ Truyền Giáo Tòa Thánh.

Trước khi đi sâu vào các chi tiết của dòng sử Bùi Chu, chúng tôi xin trình bày vài nét tổng quát về các địa phận Công Giáo Việt Nam. Ðể thấy rằng Bùi Chu là địa phận đông giáo dân và giáo sĩ nhất Việt Nam.

Nhìn vào bảng thống kê ở dưới ta thấy số giáo dân Bùi Chu đông nhất với con số 326,967 ngườị Nếu tính từ sau năm 1936, thì từ ngày Ðịa phận Thái Bình được tách ra khỏi Bùi Chu, số giáo dân cẫn còn đứng hàng đầu với 238,000 người. Sau khi phân địa phận, Thái Bình có 86,967 giáo dân.

Bảng thống Kê các địa phận công giáo Việt Nam năm 1933 cho biết:

Ðịa Phận Giáo Dân Linh Mục
Bùi Chu 326967 199
Hà Nội 166800 193
Hải Phòng 162000 87
Vinh 148328 197
Saigon 99743 106
Phát Diệm 99236 93
Huế 72102 135
Qui Nhơn 60662 99
Hưng Hoá 45000 94
Bắc Ninh 40265 67
Kontum 19808 29
Lạng Sơn 3249 16
Nam Vang 76135 112
(Trích trong Lịch sử Giáo hội Công giáo của Bùi Ðức Sinh từ trang 358-363)

Và ngày nay, theo tài liệu Annuario Pontificio per L'Anno 1984 của Toà Thánh, ta có những con số:

Ðịa Phận Giáo Dân Linh Mục
Vinh 264000 97
Bùi Chu 165000 30
Hà Nội 157000 50
Hải Phòng 145000 7
Hưng Hoá 100000 28
Phát Diệm 95000 15
Thái Bình 88446 23
Bắc Ninh 72000 5
Thanh Hóa 47000 27
Lạng Sơn 25000 4
Kontum 19808 29
Lạng Sơn 3249 16

Nhìn những con số trên đây, ta thấy số giáo dân Bùi Chu niên thời, chỉ đứng sau số giáo dân Ðịa phân Vinh. Lý do rất đơn giản là vì hồi 1954, địa phận Vinh hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của Việt Cộng, số người thoát được hoả ngục của Cộng Sản rất khó và ít.


Anh chị em Bùi Chu


Chúng ta có quyền hãnh diện; chúng ta là thành phần của một địa phận đông giáo dân nhất Việt Nam. Vì thế chúng ta nên trở về nguồn gốc để tìm hiểu tại sao: nếu xét về đất đai, Bùi Chu là địa phận nhỏ nhất, nhưng xét về số giáo dân, thì lại là địa phận lớn nhất.
(Phóng hoạ đia phân Bùi Chu - Trích trong Kỷ Yếu Bùi Chu 1985)

Nhận xét lý do tại sao Bùi Chu là một địa phận quá đặc biệt thế ? trong cuốn Lịch sử Giáo Hội Công Giáo, chương tám: Công cuộc truyền giáo tại Việt Nam trang 365 tác giả Bùi Ðư;c Sinh đưa ra ý kiến như sau: "Sự nghiệp của Ðức Cha Munagori Trung vang sang tận La Mã. Ðức thánh Cha Pio XI không ngần ngại gọi địa phận Bùi Chu là địa phận truyền giáo kiểu mẫu. Sở dĩ được như vậy, cũng là nhờ ở sự khôn ngoan của Ðức Cha trong việc dụng người, lại được hàng giáo sĩ dòng triều tận tình giúp đỡ và cộng tác rất đắc lực".

Chúng tôi không hoàn toàn đồng ý vơi tác giả. Ðịa phận Bùi Chu đúng là Ðịa Phận truyền giáo kiểu mẫu, yếu tố lãnh đạo của hàng giáo sĩ dòng triều đã đóng góp rất lớn vào sự thành công của Bùi Chu. Nhưng cũng nên để ý đến hai yếu tố khác là địa lợi và nhân hòa.

Về địa lợi, Bùi Chu nằm ở vị thế rất thuận lợi cho việc truyền giáo. Bùi Chu là vùng đồng bằng sông Hồng Hà, có nhiều chi nhánh sông Hồng Hà chảy ra vịnh Bắc Việt qua Bùi Chu, như sống Ðáy (Lạch Ðài), sông Ninh Cơ (Lạch Lác), sông Thái Bình làm cho Bùi Chu là vùng đất phì nhiêu về kinh tế: lúa thóc, hải sản và muối. Ngoài ra, nó cũng giúp cho sự thông thương bằng đường thủy rất tiện lợi. Chúng tôi muốn nhấn mạnh vào điểm này. Các giáo sĩ ngoại quốc vào miền Bắc Việt Nam từ Ma Cao của Trung Hoa, từ Manila của Phi Luật Tân, từ Singapore của Hòa Lan và của Anh, từ Goa của Ấn Ðộ. Nhưng vào bằng cách nào ? Thời ấy chưa có đường hàng không, chỉ có đường hàng hải. Các ngài nhờ tàu buôn ngoại quốc đưa vào thường thường dưới danh nghĩa của Tuyên Úy cho các thuỷ thủ đoàn. Thời ấy cũng chưa có thương cảng Hải Phòng, chỉ có phố Hiến là thành phố nằm ven sông Hồng Hà gần tỉnh lỵ Hưng Yên ngày nay. Phố Hiến là thương cảng phồn thịnh nhất thời ấy, nên sử gia Trần Trọng Kim đã nói: "Tục ngữ bấy giờ có câu rằng thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến"(Việt Nam Sử Lược, tr. 46)

Các giáo sĩ ngoại quốc từ phố Hiến di chuyển bằng thuyền theo các chi nhánh sông Hồng Hà xuống các tỉnh miền Nam nói chung và Bùi Chu nói riêng. Dùng thuyền là cách tốt nhất: nét mặt của người Tây Phương rất dễ nhận diện, đi thuyền kín đáo hơn đi đường bộ nhất là di chuyển ban đêm. Nhìn vào địa bàn hoạt động thường xuyên của các giáo sĩ ngoại quốc như Trung Linh, Bùi Chu, Hạ Linh, Liên Thủy, lục Thủy, Phú Nhai, Kiên Lao, Trung Lao, Ninh Cường, Phạm Pháo, An Lãng, Nam Lạng v.v... đã thấy rõ: Các làng đó đều nằm ở ven sông hay rất gần bờ sông. Việc gửi các thanh niên VN ra ngoại quốc du học để làm linh mục, cũng do đường thủy, nhờ các thương thuyền ngoại quốc phát xuất từ phố Hiến.

Ngoài yếu tố địa lợi, còn cần lưu ý đến yếu tố nhân hòa nữa. Dân Bùi Chu là dân sống ở vùng đồng bằng ngoài óc thông minh như các người VN khác, họ còn đặc biệt ở chỗ đơn sơ thành thật, nhiều cảm tình. Vì thế khi nhận được ánh sáng Phúc Âm do các giáo sĩ cũng là những người đầy nhiệt tâm không quản ngại gian khổ, bỏ mọi vinh quang để mạo hiểm đem đạo Chúa cho dân ngoại, khi được nhìn những gương sáng của các thừa sai ngoại quốc, nghe những lời tâm tình thành thật, không chút lừa bịp của các giáo sĩ, và nhất là khi thấy các vị dám hy sinh mạng sống để cố giữ đức tin, thì những con người Bùi Chu như đã chuẩn bị sẵn, khi có thêm ơn Chúa là niềm tin trở nên mạnh mẽ quyết tâm theo Chúa dù phải hy sinh mạng sống. Chính vì thế ta thấy Bùi Chu có rất nhiều làng công giáo trăm phần trăm như Bùi Chu, Trung Linh, Lục Thuỷ, Trung Lễ, Liên Thượng, Liên Thủy, Hạ Trại, Kiên Chính, Tang Ðiền, Văn Lý, Cồn Tròn, Xương Ðiền, Thức Hóa, Sa Chu .v.v...

Viết về Lịch sử địa phân Bùi Chu chúng ta có thể chia ra bốn thời kỳ:

1 Phôi Thai trong máu đào:

Thời kỳ đầu tiên: BC chấp nhận đạo Công Giáo và phải trải qua mấy thế kỷ thử thách, qua không biết bao nhiêu kỳ cấm đạo, thì BC cũng như các địa phận khác đều có nhiều điểm giống nhau. Chúng tôi muốn bắt đầu thời kỳ này từ năm 1679 đến 1888. Năm 1679 là năm thành lập địa phận thứ hai cho miền Bắc cũng gọi là Ðàng Ngoài.
Muốn biết rõ các biến chuyển tôn giáo trong thời kỳ này, ta cần biết sơ qua về tình hình chính trị VN vào thời đó. Trước hết, về chính trị thì từ 1592 đến 1788 kéo dài đến 196 năm, VN đã chia ra hai miền, miền Bắc cũng gọi là Bắc Hà hay Ðàng Ngoài, lấy sông Gianh gần Quảng Bình làm ranh giới, thuộc quyền vua Lê và Chúa Trịnh, đóng đô ở Thăng Long. Vua Lê chỉ có quyền tượng trưng, thực quyền do chúa Trịnh nắm hết. Bắc Hà chia ra 11 xứ hay Trấn. Ðịa phận BC nằm trong xứ Nam tức Sơn Nam. Xứ Sơn Nam gồm các tỉnh Nam Ðịnh, Hà Nam, Thái Bình, Hưng Yên ngày nay.

Miền Nam tức Nam hà cũng gọi là Ðàng Trong lấy ranh giới từ phía Nam sông Gianh trở xuống. Kinh đô ban đầu đóng ở làng Ái Tử, tỉnh Quảng Trị (vì thế có cổ thành Quảng Trị) , sau này dời về Phú An, huyện Quảng Ðiền, về sau di vào Kim Long huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Từ năm 1788 đến 1802, nhà Nguyễn Tây Sơn đánh thắng cả chúa Nguyễn, chúa Trịnh, thống nhất đất nước được 14 năm, đến khi vua Quang Trung băng hà, thì nhà Nguyễn Tây Sơn suy yếu. Chúa Nguyễn Ánh mời một số sĩ quan Pháp tới giúp khí giới và chiến lược đánh thắng được nhà Nguyễn Tây Sơn, thống nhất VN lấy hiệu là vua Gia Long từ năm 1802, qua các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị Tự Ðức(Xem bài viết về Các Vua nhà Nguyễn và Công Giáo)

Thời vua Tự đức, quân Pháp chiếm nước VN. Vua Tự Ðức nhận tha đạo trong hai hòa ước Nhâm Tuất (1862) và hòa Ước Giáp tuất (1874) ký với Pháp. Vua Tự Ðức mất vào năm 1883.

Ngoài phần chính trị ta cũng nên biết vào thời kỳ đó, nước VN thông thương với người ngoại quốc như thế nàọ Sự hiểu biết này sẽ giúp ta biết các giáo sĩ ngoại quốc ra vào VN và các thanh niên Công Giáo VN du học tại các Ðại Chủng Viện ở ngoại quốc ra sao.

Bùi Chu Ðón Nhận Ðạo Công Giáo:

Theo tài liệu lịch sử VN, làng Ninh Cường của B.C. được đón nhận Ðạo chúa sớm nhất, Theo cuốn Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì: "Năm Nguyễn Hòa nguyên niên(1533) đời Lê Trang Tôn có một dương nhân(người Tây) tên là Inikhu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam-Chân và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy. Mấy làng này đều thuộc địa hạt Bùi Chu.

Theo tài liệu của cha Ðắc Lộ, thì năm 1627, vào thời Trịnh Tráng, các giáo sĩ dòng Tên từ Ma Cao đã được sai đến giảng đạo ở xứ Bắc. Các ngài đã đến nơi nhằm ngày 19-3-1627 nên đã nhận thánh Giuse làm quan thầy cho Bắc Việt.

Tưởng cũng nên biết các cha dòng Tên là những vị tiên phong truyền giáo ở Việt Nam từ 1615 đến 1659. Các cha Buzomi, Christoforo Borri, cha Ðắc Lộ đi lại các tỉnh miền Nam nhiều hơn. Chỉ có cha Baldinolli là giáo sĩ dòng Tên hoạt động nhiều ở Ðàng Ngoài tức miền Bắc. Ai cũng biết cha Ðắc Lộ đã có công sáng chế ra vần quốc ngữ cho Việt Nam.

Cho tới năm 1653, các cha dòng Tên đã rửa tội được 408,000 người VN, trong số đó 308,000 người ở Ðàng Ngoài, 50,000 người ở Ðàng Trong. Hồi đó chưa có Giám Mục. Với một sự nhì xa trông rộng, cha Ðắc Lộ thấy rõ: cần phải có linh mục Việt Nam để giảng đạo cho người Việt Nam. Con số trên 400 ngàn giáo dân kia đòi hỏi ba bốn trăm linh mục mới có thể giúp giáo dân sống đạo được. Không thể đưa mấy trăm linh mục ngoại quốc vào VN được. Trước hết không tìm đâu ra số linh mục đó, không có phương tiệnm vật chất để thực hiện. Ðằng khác linh mục ngoại quốc sẽ gặp rất nhiều trở ngại cấm cách tại VN. Muốn lập hàng giáo sĩ VN, trước hết cần phải lập địa phận tại VN. Cha Ðắc Lộ nghĩ và làm. Ngài đi vận động tại Roma, trình bày vấn đề với Toà Thánh. Lẽ dĩ nhiên Tòa Thánh rất đồng ý, và muốn cha đi tìm người để đề nghị. Ngài về Pháp và đề nghị hai cha Pally và cha Lambert de la Motte thuộc hội thừa sai Paris MEP lên Tòa Thánh. Hai cha đã được Tòa Thánh chọn làm Giám mục cho Việt Nam, và 2 địa phận tiên khởi VN được thành lập 1659: một địa phận Ðàng Ngoài do đức Cha Pallu phụ trách, điạ phận Ðàng Trong do Ðức Cha Lambert de la Motte trông coi. Và cũng từ đó, tức từ năm 1659, Giáo Hội VN được trao cho các thừa sai Paris và các cha Ðaminh, tỉnh dòng Phi Luật Tân.

Từ năm 1679, Ðịa phận Ðàng Ngoài chia thành 2, lấy sông Hồng và sông Lô làm ranh giới cho 2 miền Tây và Ðông. Miền Tây thành địa phận Tây, tức Hà Nội, do đức cha de Bourges phụ trách. Miền đông thành địa phận Ðông tức Hải Phòng được trao cho đức cha Deydier.

Nhân tiên để quí vị hiểu rõ các địa phận tại 2 miền Nam Bắc Việt Nam cho tới năm 1975, miền Bắc có 10 địa phận, miền Nam có 16 địa phận kể cả địa phận Nam Vang, Cao Miên.

Chúng tôi xin in lại bảng phân chia 26 địa phân VN.

Những ngày đầu của Bùi Chu:

Muốn hiểu rõ những biến chuyển của địa phận B.C., chúng ta cần lưu ý đến 3 địa phận Ðông (Hải Phòng) 1679, địa phận Bùi Chu cũng gọi là địa phận Trung (1848) và địa phận Thái Bình (1936).

Mồng 7 tháng 7 năm 1676, hai cha dòng Ða Minh người Tây Ban Nha (Spanish) thuộc tỉnh dòng Phi Luật Tân là các cha Gioan de Santa Crux và Gioan Arjona từ Manila tới tham gia việc truyền giáo tại VN. Các cha đặt chân lên phố Hiến và từ đó học tiếng VN sáu tháng. Vốn là những nhà trí thức có căn bản sinh ngữ, các ngài học tiếng bản quốc không khó khăn lắm. Cha Gioan de Santa Crux đã thông thạo tiếng Trung Hoa vì đã từng giảng đạo cho người Trung Hoa tại Manila, Phi Luật Tân. Cha Gioan Arjona là giáo sư đại học thánh Thomas tại Manila.

Trong thời kỳ học tiếng Việt Nam, hai cha lấy kinh nghiệm sống với những người Tàu sinh sống tại Manila, viết lại tất cả những phong tục, những nghi lễ của người Tàu mà các ngài thấy người VN cũng bắt chước. Bản phúc trình của hai cha gửi cho đức cha Deydier về các nghi lễ Trung Hoa được đúc kết thành 274 câu hỏi và những lời giải đáp. Bản phúc trình này đã giúp ích rất nhiều cho các nhà thần học tại những đại học Công giáo ở Roma giải quyết những nghi vấn một cách ổn thoả thoe đúng giáo lý Công giáo. Về sau giám mục hai địa phận Ðàng Ngoài là Hà Nội và Hải Phòng đã tha thiết xin bề trên tỉnh dòng Phi luật Tân gửi thêm các linh mục sang giảng đạo tại Nam Ðịnh, Hải Dương và Bắc Ninh.

Tháng hai năm 1677, sau khi đã biết nói tiếng Việt, hai cha theo đường thủy xuống giảng đạo tại các làng Trung Linh, Bùi Chu. Các làng đó nằm ngay ven sông Ninh Cơ, rất thuận lợi cho việc di chuyển ba9`ng thuyền, để tránh sự lùng bắt của chính quyền tỉnh Nam Ðịnh thời đó đang xiết chặt vòng vây để cấm đạo. Cũng năm đó cha Dionysius Morles dòng Ða Minh Tây Ban Nha được phái sang tăng cường cho hai cha đang giảng đạo tại vùng Trung Linh, BC. Ngày đêm di chuyển bằng thuyền, tìm mọi dịp để dạy đạo, dâng thánh lễ, giúp đỡ tinh thần vật chất cho người bản xứ do tiền quyên cúng nhận được từ Phi Luật Tân. Kết quả đầu: các cha đã rửa tội được 300 người, và mỗi năm khuyên được ba bốn trăm người nhận biết Chúa.

Cha Gioan de Santa Crux soạn thảo mộ số sách đạo bằng Việt ngữ như: Hạnh các Thánh, Vườn hoa thiêng liêng. Phương pháp học Hán văn. Các cha lập hội Mân Côi, tổ chức ngắm đứng trong tuần thánh theo tục lệ bên Tây Ban Nha để giáo dân dễ suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Cứu Thế v.v...

Năm 1681, hai cha con Gioan Arjona và Dionysius Morales bị quan tổng đốc Sơn Hà bắt. Sau nhiều ngày tháng giam cầm tra tấn, các cha đã bị cưỡng ép xuống tàu Hoà Lan trở về Manila. Vùng Bùi Chu, Trung Linh chỉ còn một mình cha Gioan de Santa Crux ở lại lén lút giảng đạo.

Tới năm 1682, cha Raymondus Lezoli gốc Ý tu dòng Ðaminh Phi Luật Tân tới giúp cha Santa Crux. Cha Lezoli nguyên là y sỹ, ban đầu tạm trú ở Thủy Nhai gần Bùi Chu để học tiếng Việt, nhưng vì việc cấm đạo quá gắt gao, cha phải tạm lánh nạn sang Thái Lan làm thơ ký cho hai cha Bourges va Deydier đã được sắc Tòa Thánh phong làm giám mục hia địa phận Tây và địa phận Ðông. Các ngài mới sang Thái Lan để thụ phong chức Giám mục. Khi được tin có thể trở lại VN cùng cha Santa Crux tiếp tục giảng đạo. Kết quả rất khả quan: các cha đã khuyên được rất nhiều người chung quanh vùng Bùi Chu theo đạo.

Năm 1683, cha Gioan Santa Crux được cử coi sóc họ đạo tại Kiên Lao, một làng cách Bùi Chu 3 cây số về phía Nam, đồng thời Tòa Giám Mục cũng ủy thác cho các cha Ðaminh tỉnh dòng Phi luật tân coi sóc các họ đạo Bùi Chu và hoạt động giảng đạo trong năm phủ huyện. RIêng cha Santa Crux đã xây được 140 nhà thờ và 12 giáo họ.

Năm 1686, công giáo bị đàn áp quá gắt gao, các cha phải tạm lánh nạn. Ban đầu, các ngài vào Thanh Hóa, giảng đạo và khuyên được nhiều người theo đạo. Các cha định tiến vào Nghệ An, nhưng không thể đi được. Các ngài tìm đường đi Hải Dương, tại đây một vấn đề nan giải xảy ra: hiện ở Hải Dương đã có rất nhiều người công giáo trở lại đạo từ hồi các cha dòng Tên giảng đạo tại đó. Khi các cha dòng Tên ra đi, giáo dân nhất định không chịu xưng tội với các dòng khác. Phải một hồi khuyên bảo, giải thích, giáo dân mới vỡ lẽ và tiếp tục giữ đạo. Hai cha phân địa giới để làm việc. Cha Lezoli hoạt động trong phạm vi nửa tỉnh phía đông, còn cha Santa Crux giảng đạo nửa tỉNh phía tây và lan rộng sang cả địa giới tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1690, các cha Ðaminh lại trở về Trung Linh, Bùi Chu, khuyên được 400 người theo đạo trong đó có 25 sư sãi. Hồi đó số giáo dân Bùi Chu đã tới 18 ngàn người chưa kể những người đang chuẩn bị chịu phép rửa tội. Phong trào lùng bắt các giáo sĩ ngoại quốc lại lên cao độ, sau khi thảo luận với giáo dân, các ngài tạm lánh đi Hải Dương.

Năm 1695, phái đoàn truyền giáo ÐaMinh được thêm hai cha Petrus Bustamente và Franciscus Lopez. Ban đầu 2 cha tạm lưu tại Bankok, Thái Lan giúp đức cha, rồi năm sau, các ngài đi tàu vào Phố Hiến. Nhưng việc cấm đạo quá gắt, các ngài không lên bộ tại phố Hiến được phải ở lại tàu buông mấy tháng sau mới lên bờ được và hoạt động tại Kẻ Sặt.

Năm 1698, cha Raymundus Lezoli được tòa thánh bổ nhiệm làm Giám Mục coi sóc địa phận Ðông thay thế Ðức cha Deydier đã qua đời từ 1693. Cha Lezoli thụ phong giám mục tại Kẻ Sặt năm 1702.

Năm 1705, thêm 2 cha Ðaminh Sabuquillo và Thomas Sextri tăng cường cho 5 cha đang ngày đêm kiệt sức lo việc giảng đạo. Vì phải săn sóc 120 họ đạọ Hằng năm số người xưng tội là 25 ngàn, rửa tội 2 ngàn trẻ em và 300 người lớn. Ðặc biệt năm 1705, đức cha Lezoli về Trung Lao, một họ đạo cách Bùi Chu về phía tây 10 cây số, dự các nghi lễ tuần thánh rất long trọng.

Năm 1706, một tai họa xảy đến: một số người bỏ đạo và vì muốn lập công, bằng cách tố cáo các linh mục, khiến các ngài phải lẩn trốn. Ðức cha Lezoli qua đời được an táng tại Lục Thuỷ cách Bùi Chu 2 cây số về phía Bắc. Năm 1707 cha Santa Crux được bổ nhiệm làm giám mục thay thế.

Năm 1712, chúa An Vương lên ngôi ra sắc lệnh cấm đạo. Rất nhiều sách đạo, đồ thờ phượng bị tiêu hủy, 164 nhà thờ thuộc địa phận Kẻ Sặt, 304 giáo dân chết vì đạo. Các linh mục may mắn thoát hiểm bằng cách trốn xuống thuyền di chuyển đó đây để thăm viếng an ủi giáo dân. Vì thế số người theo đạo vẫn đông. Hằng năm có 500 người chịu phép rửa tội. Cơn cấm đạo kéo dài hai năm. Dân chúng tin rằng việc ấy khiến cho cả miền bị lụt và dịch tễ, làm thiệt hại một phần ba lúa thóc. Trong lúc này các thừa sai vẫn hăng hái giảng đạo và giúp đỡ nhân dân, nên đã đưa được 1165 người trở lại đạo, nhất là có 2500 người vì yếu đuối đã bỏ đạo, nay xin hối cải trở về cùng Chúa và Giáo hội.

Năm 1715, thêm hai cha Daminh Guelda và Joannes Ventura sang giảng đạo. Cha Guelda hoạt động tại Nam Lạng, một làng cách Bùi Chu 14 cây số về phía Tây. Một giai thoại buồn cười xẩy ra: Một hôm cha Guelda bị bắt cùng với một số thầy giảng. Các bà mẹ công giáo nhanh trí, tung tro vào quân lính, làm cho họ dụi mắt không kịp, cha Guelda trốn được, các bà dùng nhiều xảo thuật khác, làm tất cả các thầy giảng bị bắt cùng trốn được. Từ đó các cha phải ẩn trốn vào các nghĩa địa. Cha Santa Crux phải ẩn trốn trong cót thóc nhà dân.

Năm 1718, Tòa Thánh sắc phong cha Santa Crux và cha Sextri làm Giám Mục, nhưng tại Ðàng Ngoài không có Giám Mục chủ phong. Cha Sextri phải trở về Manila chịu phong Giám Mục rồi trở lại Bùi Chu ngày 13 tháng 8 năm 1719 để phong chức Giám Mục cho cha Santa Crux tại làng Trung Linh cách Bùi Chu một cây số, trước sự chứng kiến của sứ thần Hoàng Ðế Tây ban nha.

Năm 1721, ngày 14/8/1721, một đám tang vô cùng cảm động diễn ra tại làng Trung Linh. Ðám tang đức cha Santa Crux, ngài là vị truyền giáo dòng Ða Minh đầu tiên tới VN năm 1676. Sau 45 năm tận tụy giảng đạo cho người VN nói chung và cho dân Bùi Chu nói riêng, với 21 năm làm cha chính địa phận, 14 năm quyền giám mục và 2 năm làm giám mục thực thụ đã qua đời hưởng thọ 75 tuổi.

Cũng trong năm 1721, phong trào cấm đạo lại bộc phát dữ dội, các giáo sĩ lại phải di chuyển bằng thuyền để trốn tránh, để tìm dịp đi thăm giáo dân và giảng đạo. Trong năm ấy, thầy Lễ bị bắt và chết rũ tù. Thầy là gương sáng cho mọi người trong tù, hằng ngày thầy vẫn đọc 15 tràng hạt 150 hoặc đọc một mình hay đọc chung với các thầy và giáo dân cùng bị giam.

Năm 1726, kỷ niệm 50 năm dòng Ðaminh tỉnh dòng Phi luật tân truyền giáo tại VN. Tính sơ qua, đã có 15 vị vừa Giám Mục vừa linh mục đã qua đời và an táng trên dất VN, một số khác đã trở lại Manila, sau khi đã mãn nhiệm kỳ. Nhờ công lao của các ngài, Chúa đã soi sáng cho rất nhiều người VN mà có tới 80% là dân Bùi Chu đã nhận biết ánh sáng Phúc Âm.

Năm 1737, đức cha Sextri qua đời, chôn táng tại Lục Thủy, cách Bùi Chu 2 cây số về phía Bắc. Ðức cha Hilarius a Jesu kế vị cho tới năm 1757. Năm 1737, cha Gil de Frederich bị bắt điệu lên Hà Nội cầm Tù cho tới khi bị xử tử năm 1745.

Năm 1738, năm đáng ghi nhớ trong lịch sử truyền giáo tại VN. Ta nên biết rằng: ngay từ năm 1668, các Ðức Cha đã nghĩ tới việc huấn luyện linh mục VN và đã có ít là 4 thầy giảng đã được huấn luyện để chịu chức linh mục. Như cha Gioan Huệ 46 tuổi, cha Bendictô Hiền 54 tuổi thuộc địa phận Ðàng Ngoài, cha Giuse Trang 28 tuổi, cha Luca Bền thuộc địa phận Ðàng Trong. Nhưng riêng địa phận Ðông, từ năm 1738, mới phát động phong trào gửi thanh niên ra ngoại quốc để học làm linh mục. Hoàng đế Tây ban nha thường xuyên hàng năm cấp 6 học bổng, mỗi học bổng là 100 quan tiền cấp cho chủng sinh VN du học tại các đại học Công Giáo tại Manila Phi luật Tân. Chủng sinh bất cứ là dòng hay triều đều được hưởng học bổng. Nếu thiếu, thì tỉnh dòng Ðaminh Phi luật tân sẽ cấp thêm. Vì thế, về sau mới có nhiều linh mục giảng đạo cho người VN. Cũng năm 1738, có 2 thanh niên VN nhập dòng Ðaminh.

Năm 1743, cha Mathoeus Liciniana Đậu bị bắt tại làng Lục Thủy Hạ(Liên Thủy) và giam chung với cha Gil Federich Tế và thầy Quí, những người đã bị bắt trước. Thầy Quí về sau nhập dòng Ðaminh và chịu chức linh mục, bị bắt, bị tra tấn một thời kỳ rồi được tha. Còn 2 cha Licinianna Đậu và Federich Tế vẫn bị giam, nhưng được làm lễ va các phép bí tích cho tới ngày 22/1/1745 và bị xử tử tại Hà Nội. Xác 2 cha được đưa về an táng tại làng Liên Thủy.

Năm 1750, đa số các cha Ðaminh gốc Tây ban nha đều qua đời, chỉ còn cha Ludovicus Espinosa và 7 cha Daminh VN. Năm sau thêm 2 cha Hernandez và Emmanuael Martin. Thời đó, việc cấm đạo có vẻ lắng dịu, có lẽ vì các linh mục ngoại quốc đều ẩn tránh hay có lẽ vì 2 cha ngoại quốc mới bị chết vì đạo.

Năm 1753, một công đồng giả hiệu nhóm họp tại Lục Thủy Hạ gồm một số linh mục và thầy giảng ngoài dòng Ðaminh. Ðể phản đối, các vị thừa sai đã phải ủy cha Hernandez đi Roma trình bày diễn tiến cộng đồng giả hiệu ấy với Toà Thánh. Cha Hernandez trình bày các chi tiết của nhóm cộng đồng giả hiệu, tòa thánh hiểu vấn đề, và đã bổ nhiệm cha làm Giám Mục địa phận Ðông, và đồng thời từ nay trao địa phận Ðông cho các cha dòng Ðaminh, tỉnh dòng Phi luật tân. Trong khi các sự việc diễn tiến như trên tại Roma, thì đức cha Hilarius a Jesu qua đời tại Lục Thủy, cha chính Adrianus dùng quyền khiển trách và chống lại các cha Ðaminh đến nỗi cha Llobresals tác giả cuốn sách "Giống Má" phải lên tiếng phản đối cha Chính Adrianus và bênh vực các cha Ðaminh. Có thể cha Chính Adrianus hành động thiếu khôn ngoan, vì sau đó, Toà Thánh đã gọi Ngàiv à các cha dòng Augustino phải bỏ VN trở về Âu Châu. Trong địa phận Ðông hồi đó chỉ còn lại các cha Ðaminh và các cha VN với một số ít các cha dòng Tên.

Năm 1764, tình hình nội bộ êm đẹp trở lạị Tòa giám mục được di về Liên Thủy, cách Bùi Chu 1 cây số về phía đông. Cha Chính địa phận từ nay sẽ là cho phó giám tỉnh Ðaminh, tỉnh dòng Phi luật tân. Các cha gốc Âu châu hay các cha bản xứ sẽ phụ trách một nhiệm sở rõ rệt. Cha chính sẽ bổ nhiệm các thầy giảng giúp các cha tại các họ đạo. Giới phụ nữ cũng được lưu ý đặc biệt: cho học thêm giáo lý và sống đạo đức hơn để tổ chức thành tu hội Mến Thánh Giá hay dòng Ba Ðaminh sống chung với nhau. Cha Ludovicus Espinoza làm cha chính từ năm 1747 và đã qua đời, an táng tại Trung Linh năm 1770. Trước khi qua đời, ngài có ghi lại những cảm nghĩ về tình hình địa phận hồi ấy như sau:

"Trong địa phận, số giáo dân tăng thêm, mê tín dị đoan giảm thiểu, các người tân tòng sống đạo vừa có ý thức, vừa biết sửa đổi cách ăn ở". Hàng giáo phẩm hồi đó, ngoài Giám mục, còn có 9 cha Ðaminh Tây ban nha, 17 cha dòng Ðaminh VN và một số linh mục triều VN.

Năm 1773, cha Vincentius Liêm quê ở Thôn Ðông, Trà Lũ, tử đạo tại Hà Nội ngày 7/11/1773. Cha Vincentius Liêm du học Ðại học Ðaminh Manila năm 1754, chịu chức linh mục 1758, về VN giảng đạo, bị bắt và tử đạo. Ngài là một nhà trí thức uyên bác, lúc bị giam tại Hà Nội. Ngài yêu cầu quan quyền cho phép tranh luận về tôn giáo với các nhà trí thức của Phật giáo, Khổng giáo và Lão Giáo. Ngài đã được đáp ứng và các bài tranh luận của Ngài được ghi lại trong cuốn Hội đồng Tứ Giáo (Công giáo, Phật giáo, Khổng và Lão giáo). Cha Vinentius Liêm được phong chân phước năm 1906 và tại Ðại học dòng Ðaminh Manila, người được trọnh kính như quan thầy của trường. Hàng năm trường đại học tổ chức lễ kính Ngài rất long trọng.

Năm 1776, việc cấm đạo sôi động trở lại. Riêng các làng chung quanh Bùi Chu, 306 nhà thờ bị phá hủy. Cha nào bị bắt, giáo dân xin tha phải chuộc một ngàn quan tiền. Thầy Triệu và 20 người giáo dân bị xử tử, rất nhiều người bị cầm tù, bị tra tấn dã man, tình trạng bi thảm kéo dài tới năm 1781 mới tạm yên. Năm 1777, đức cha Hernandez qua đời tại Bùi Chu, cha Alonso tạm quyền nhiếp chính.

Năm 1779, cha Emmanuel Obelar, thụ phong Giám Mục tại Bùi Chu, sau khi trao xứ Kiên lao cho cha Feliciano, ngài di chuyển tòa giám mục từ Liên Thủy sang Bùi Chu. Ðến dây, ta nên nhớ rằng: tuy địa phận Ðông mà người ta thường gọi là địa phận Hải Phòng được thành lập từ năm 1679, nhưng trụ sở tòa giám mục vẫn đặt tại mấy làng chung quanh Bùi Chu, lúc thì ở Lục Thủy cách Bùi Chu 1 cây số về phía đông, cho tới năm 1779, mới dời về Bùi Chu. Năm 1848, tòa thánh lập thêm địa phận Trung tức Bùi Chu, thì toà giám mục địa phận Hải Phòng đi về Kẻ Sặt và mãi tới đầu thế kỷ 20, mới đưa về Hải Phòng. Còn Bùi Chu thì từ năm 1779 vốn là trụ sở của địa phận Ðông (Hải Phòng), và từ 1848 biến thành trụ sở của địa phận Trung tức Bùi Chu.

Năm 1785, cha Pujol sau khi hy sinh giảng đạo 27 năm tại các họ đạo Trung Lao, Thạch Bi, Phạm Pháo đã qua đời ở Bùi Chu. Ðức cha Obelar qua đời năm 1789 tại Bùi Chu sau khi đã phục vụ Giáo hội 21 năm trong cánh đồng truyền giáo. Cha chính Alonso lên thay thế ngài trong chức vụ GM địa phận đã có tới 95 ngàn giáo dân. Về chính trị, nhà Hậu Lê, họ Trịnh và họ Nguyễn mất quyền vào tay nhà Nguyễn Tây Sơn thống nhất Nam Bắc VN.

Năm 1790, nhà Nguyễn Tây Sơn còn cấm đạo dữ dội hơn trước. Thầy Quí bị bắt với cha Liciniana tại Lục Thủy, bị điệu từ Nam Ðịnh lên Hà Nội, bị ra tòa 10 lần. Nhờ giáo dân hối lộ với quan nên thầy được tha. Thầy nhập dòng Ðaminh hồi 28 tuổi, học thêm về thần học, chịu chức linh mục nhưng sau cùng cũng bị bắt và chết vì đạo. Năm đó, giáo đoàn được thêm 4 cha: cha Delgado, cha Gatillepa, cha Vidal và cha Henares.

Năm 1793, cha Alonso thụ phong giám mục địa phận Ðông. Ðạo phát triển rất mau lẹ. Ðức cha mở tu hội Nhà Chúa tại nhiều nơi, xin Toà thánh bổ nhiệm cha chính Delgado Y làm giám mục phụ tá. Chính ngài truyền chức giám mục cho cha Delgado ngày 20-9-1795. Về chính trị, chúa Nguyễn Ánh tấn công nhà Nguyễn Tây Sơn tại Bắc Việt.

Năm 1789, cha Triệu gốc miền Nam ra bắc học thêm thần học tại Trung Linh, cạnh Bùi Chu với cha Henares. Xa nhà lâu ngày, muốn về thăm quê, trên đường vô Nam, cha bị bắt và bị xử tử tại đó.

Từ 1784 đến 1789, về chính trị chúa Nguyễn Tây Sơn đã nhờ đức cha Bá Ða Lộc (Pigneaux de Béhaine) đưa Hoàng tử Cảnh sang cầu viện nước Pháp. Một số tướng tá Pháp đã giúp chúa Nguyễn Ánh thống nhất được VN lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Khi mới lên ngôi, vua Gia Long ban chỉ thị tha đạo, hứa cho người công giáo được tự do giữ đạo, không phải đóng góp vào các việc tế tự của người ngoại giáo. Từ trước đến nay, sự đóng góp này đã gây nhiều khó nghĩ cho người công giáo thiểu số ở chung với những làng ngoại giáo.

Ngày 9/1/1803, đức cha Henares Minh thụ phong giám mục tại nhà thờ Phú Nhai cách Bùi Chu 3 cây số về phía đông trước sự tham dự rất đông của giáo dân và 31 linh mục VN, có cả phu nhân quan tổng đốc Nam Ðịnh tới dự với một đoàn lính hộ vệ.

Hai giám mục Delgado Y và Jacobus vào yết kiến vua Gia Long tại kinh đô Huế, trình lên vua lời hứa miễn cho giáo dân đóng góp vào việc tế tự thần Phật, nhà vua từ chối lấy cớ là các quan trong triều không ưng thuận.

Năm 1806, thêm 130 linh mục VN nhập dòng Ðaminh, trong số này có cha Yên, về sau bị bắt và tử đạo. Cha Yên là linh mục VN thứ 50 nhập dòng Ðaminh, tỉnh dòng Phi luật Tân. Các cha VN nhập dòng Ða Minh đa số học tại mấy đại học bên Manila.

Năm 1809, bão lụt rất lớn xảy ra tại Bắc Việt, nước sông, nước biển dâng cao, nhiều làng bị ngập lụt, hàng ngàn người bị chết đuối. Cha Amandi, bề trên dòng Ða minh, ra sức cổ động các nơi giúp đỡ nạn bão lụt. Chính ngài làm gương sáng và làm mọi cách giúp nạn nhân.

Năm 1812, vua Napoléon gây chiến tại Âu châụ VN tương đối bằng an, tình hình tôn giáo lắng dịu. Dân công giáo Bùi Chu lên tới 100 ngàn người. Những người sa ngã chối đạo vì yếu đuối, đều trở lại ăn năn hối cải. Về hàng giáo phẩm, ngoài đức cha và đức cha phụ tá, còn có cha chính, 8 cha gốc Tây ban Nha và 25 cha VN.

Năm 1816, nhiều người đặt huy vọng vào vua Gia Long, một ông vua đã nhận nhiều giúp đỡ của các giáo sĩ ngoại quốc, người ta cũng đặt hy vọng vào ông hoàng tử Cảnh, một ông hoàng hiểu biết nhiều về Tây phương nói chung và các giáo sĩ nói riêng. Nhưng hy vọng đã tan như mây khói. Ông hoàng tử Cảnh đã qua đời, và chỉ chịu phép rửa tội trước khi chết. Vua Gia Long không truyền ngôi cho con một bà quý phi khác là ông hoàng Ðảm sau này lấy hiệu là vua Minh Mạng. Triều đình hầu hết ác cảm với công giáo. Vì thế, những người hiểu rõ thời thế tiên đoán sóng gió tàn sát công giáo sắp diễn ra. Vua Gia Long qua đời năm 1820, vua Minh Mạng lên nối ngôi. Tuy tân vương rất ác cảm với công giáo, nhưng chưa muốn ra tay ngay, nhất là hồi đó, cả nước đang bị bệnh dịch tàn phá, khiến rất nhiều người bị chết. Chính nhà vua cũng lo sợ đề phòng bệnh cho chính mình.

Về tình hình địa phận, cha Bombin được chọn làm cha chính kiêm nhiệm cả cha sở xứ Ninh Cường và giám đốc chủng viện Ninh Cường. Tuy kiêm nhiều chức vụ, ngài rất chịu khó giảng dạy, khuyên bảo được rất nhiều người trở lại xin chịu đạo.

Năm 1825, vua Minh Mạng ra chỉ cấm giáo sĩ tây phương không được vào VN giảng đạo. Sang năm 1826, vua ra chỉ dụ cấm đạo. Vua cho mời các giáo sĩ ngoại quốc vào kinh đô Huế, và nói rằng vua cần nhờ các ngài phiên dịch một số tài liệu viết bằng ngoại ngữ tây phương. Mưu đó không thành công, vì các giáo sĩ đã đoán trước ác ý của vua, nên không ai đáp lời mời để tự nạp mình. Ðức cha Henares Minh thoát được vòng vây quân quan có ý bao vây để bắt ngài.

Năm 1830, đức cha Hermosilla tới giảng đạo tại VN. Số giáo dân địa phận Ðông, đa số là Bùi Chu, tăng lên 163 ngàn người.

Năm 1836, cha chính Amandi qua đời. Ngài là người đầu tiên soạn sách thần học luân lý bằng tiếng Việt. Ngài đà nhận 35 thanh niên VN gia nhập dòng Ða Minh trong số đó nhiều vị đã được phúc tử vì đạo thời vua Minh Mạng và Tự Ðức. Ngài cũng mời được cha Vincente Thiên nhập dòng Ða Minh. Cha Thiên là một linh mục trí thức, đã soạn cuốn sách các bài giảng bằng tiếng Việt Nam, một cuốn sách giúp ích rất nhiều cho các linh mục ngoại quốc và VN. Ngài là linh mục Ða Minh VN thứ 98.

Năm 1838, bắt được một số thư viết cho giáo sĩ ngoại quốc, vua Minh Mạng ra lệnh cho tổng đốc Trịnh Quang Khanh cấp tốc phải bằng mọi cách tiêu diệt các linh mục ngoại quốc và linh mục VN, bắt mọi người từ giáo dân đến giáo sĩ phải bỏ đạo bằng hành động bước qua tương thánh giá. Ðược lệnh này, tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã tích cực lùng bắt các giáo sĩ. Ông bắt được đức cha Delgado Y tại làng Kiên Lao cách Bùi Chu 3 cây số về phía Nam, bắt được đức cha Henares và thầy Chiêu tại một làng gần bãi biển.

Năm 1841, vua Minh Mạng ngã ngựa qua đời, vua Thiệu Trị lên nối ngôi, cha Hermosilla chịu chức giám mục tại Vĩnh Trị.

Năm 1847, vua Thiệu Trị chết, vua Tự Ðức nối ngôị; Cha Marti Gia thụ phong giám mục phụ tá cho địa phận Ðông.

Năm 1848, địa phận Trung, tức Bùi Chu được tách ra khỏi địa phận Ðông tức Hải Phòng, trụ sở địa phận Bùi Chu đặt tại làng Bùi Chu, còn địa phận Ðông bây giờ gọi là địa phận Hải Phòng được di chuyển từ Bùi Chu lên Ðông Xuyên do đức cha Hermosilla là giám mục và đức cha Hilario Aleazas làm giám mục phụ tá. Ðịa phận Bùi Chu được đặt dưới quyền đức cha Dominico Marti Gia và đức cha phụ tá Josepho Sanjurjo.

Năm 1848 là năm đáng ghi nhớ đối với lịch sử của Bùi Chu. Từ 1679 đến đây, tuy rằng tới 80% giáo sĩ, giáo dân được nói đến về địa phận đông tức Hải Phòng, đều xảy ra tại Bùi Chu. Ví dụ Toà giám mục địa phận Ðông, ban đầu đặt tại Lục Thủy cách Bùi Chu 2 cây số về phía Bắc, rồi lại di chuyển về Liên Thủy cách Bùi Chu 1 cây số về phía đông, sau cùng đưa về chính làng Bùi Chu. Các địa danh mà các giáo sĩ ngoại quốc thường đi lại, hoặc được chôn cất cũng đều là những họ đạo thuộc Bùi Chu như Trung Linh, Lục Thủy, Liên Thủy, Thủy nhai, Phú Nhai, Kiên Lao, An Lãng, Trung Lao, Nam Lạng, Phạm Pháo, Ninh Cường v.v... Nhưng danh xưng của địa phận vẫn là địa phận Ðông tức Hải Phòng chiếm một biên giới rất rộng lớn, bắc gaíp Trung Hoa, Ðông và Nam là Vịnh Bắc Việt, tây là sông Hồng Hà. Tới năm 1848, toà thánh mới chính thức thành lập địa phận Trung vì nó nằm giữa địa phận Tây (Hà Nội) và địa phận Ðông (Hải Phòng), và gồm 3 tỉnh: Nam Ðịnh, Thái Bình, và Hưng Yên.

Từ 1855 đến 1862, dưới triều vua Tự Ðức, việc cấm đạo khủng khiếp hơn hết. Riêng 2 địa phận Bùi Chu và Hải Phòng đã có trên hai ngàn giáo dân chịu chết vì đạo.

Năm 1858, cuối thời vua Tự Ðức, đức cha Melchior Sampedro Xuyên vừa mới nhận trọng trách địa phận Trung (Bùi Chu) đã bị bắt, nhưng trước đó ngài đã phong cho cha Berriochoa Vinh làm giám mục phụ tá có quyền kế vị. Ðức cha Xuyên đã bị xử lăng trì tại Nam Ðịnh ngày 28/7/1858.

Sau hoà ước Nhâm Tuất(5/6/1862), tôn giáo tương đối được dễ dàng đôi chút, nhưng địa phận Trung vẫn chưa có giám mục vì tình hình chưa yên hẳn. Phải đợi đến 1865 mới có đức cha Cezon Khang (1865-1880) về cai quản địa phận.

Với hiệu lực của hòa ước Nhâm Tuất (1862) và 2 sắc dụ tha đạo của vua Tự Ðức (1869) cùng với hòa ươ;c Giáp Tuất (1874), việc cấm đạo coi như được chính thức bãi bỏ, nhưng đã làm giới kẻ sĩ (Nhà Nho) phẫn nộ, vu oan cho người công giáo theo tây làm mất nước. Họ nổi dậy qua hai phong trào Văn Thân và Cần Vương dưới thời vua Hàm Nghi bắt bớ tàn sát người công giáo một cách vô cùng ác liệt.

Từ năm 1874 đến năm 1888 và nhất là từ 1855 đến 1888, phong trào Cần Vương đã gây thiệt hại rất nặng nề cho giáo hội nhất là tại miền Trung và miền Nam. Vì đó là những phong trào nhân dân, vua quan vô tình hay hữu ý, đã làm ngơ để dân không công giáo là đa số tàn sát dân công giáo thiểu số. Chúng ta thử tưởng tượng cảnh hãi hùng của những anh em chị em công giáo thời đó sống trong các làng mạc xa xôi, hay các làng nhiều người không công giáo. Ban đầu vì bất ngờ không đề phòng, người công giáo bị giết, bị tước đoạt tài sản, nhà thờ bị phá hủy không bút nào tả xiết. Về sau, biết là phong trào nhân dân ghen ghét và vu oan, người công giáo đã đứng lên tổ chức tự vệ để chống lại. Theo tài liệu để lại, 14 năm sau cùng này đã làm thiệt hại giáo hội VN không kém mấy trăm năm cấm đạo của các vua chúa.

Diễn tiến lịch sử cấm cách, bắt đạo trên đất Việt đã chứng minh hơn 30 ngàn anh hùng tử đạo dưới thời chúa Trịnh, Nguyễn và nhà Tây Sơn. Hơn 40 ngàn chiến sĩ đức tin dưới đời 3 triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Và hơn 60 ngàn tín hữu đã chết vì tin vào Ðức Ki-tô phục sinh bởi hai phong trào Văn Thân, Cần Vương.

Thiệt hại về nhân mạng và vật chất quá lớn laọ Hầu hết nhà thờ, nhà trường, các cơ sở tôn gia;o của địa phận đã bị hủy, giáo quyền phải nghĩ ngay đến việc trùng tu những cơ sở thiết yếu đó.

Nhận xét và phê bình vua chúa VN đã cấm đạo công giáo trải qua các thời đại, chúng tôi không muốn đưa ra ý kiến riêng, chỉ xin trích dẫn một số nhận xét của sử gia Trần Trọng Kim, người ngoài công giáo. Nói về sự cấm đạo thời vua Minh Mạng, ông Trần trọng Kim viết:" Nhà Vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra để khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm được. Vả lại, Ðạo Thiên Chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế ? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi"
(VNSL - quyển II trang 228).

"Ðến năm Tân Hợi (1851) là năm Tự đức thứ 4, lại có dụ cấm đạo. Lần này cấm nghiệt hơn lần trước... Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Ðã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại dem tàm tội những người đi giảng đạo, bởi thế cho nên nước Pháp và nước Iphanho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy" (VNSL - TTK Quyển II trang 242)

"Bọn văn Thân cả thảy độ non ba nghìn người, kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo. Nước ta mà không chịu khai hóa ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi, nay sự suy nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà việc nông nỗi càn rở, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru " (VNSL - TTK quyển II trang 289-290)

2 Phát Triển Trong Thời Bình: (1888-1936)

Từ năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, việc đàn áp công giáo coi như chấm dứt, giáo hội VN như bừng tỉnh sau những ngày triền miên bị theo dõi bắt bớ. Giám mục địa phận Bùi Chu thời đó là đức cha Wesceslas Onate Thuận coi sóc từ 1884 đến 1897.
Ngài cấp tốc bắt tay vào việc xây cất lại đại chủng viện, nhà thờ chính tòa Bùi Chu, nhà dục anh Bùi Chu và tiếp tục giảng đạo rộng rãi hơn.

Năm 1897, đức cha Onate Thuận qua đời, đức cha Fernadez Ðịnh lên thay thế cho tới năm 1907. Ðức cha Ðịnh tiếp tục kiến thiết, chú trọng đến việc mở rộng nước Chúa và đã xây thêm được nhà thờ tại các làng ngoại giáo, phat' triển các hoạt động giáo hội. Tính đến năm 1907, đức cha Fernandez Dịnh từ chức, địa phận đã có những con số tốt đẹp như sau:
- 228192 giáo dân
- 615 nhà thờ
- 5 trại cùi
- 5 Cô nhi viện
- 2 bệnh viện
- 19 tu hội Mến Thánh Giá
- 3 Tu hội dòng Ða Minh.

Năm 1900, địa phận tổ chức đại hội rất long trọng trong lễ phong chân phước cho 26 đấng tử đạo của địa phận.

Năm 1907, đức cha Munagori Trung nhận quyền coi sóc địa phận Bùi Chụ Ngài thuộc dòng Ða Minh từ Manila sang VN, chịu chức linh mục tại Bùi Chu năm 1888, nên có nhiều kinh nghiệm về Bùi Chu. Ðời Giám Mục của ngài đã làm được rất nhiều công tác tôn giáo và xã hội. Ngài hoàn tất và kiện toàn đại chủng viện Bùi Chu, tu bổ và xây thêm tiểu chủng viện Ninh Cường, năm 1931 xâ cất trường thử Trung Linh, để thâu nhận các trẻ em nhỏ tuổi muốn đi tu, mà vì nghèoÕ không có phương tiện học hành. Các em sẽ hoàn tất chương trình tiểu học để lên học trung học tại tiểu chủng viện Ninh Cường. Sau đó sẽ lên đại chủng viện học triết học và thần học trước khi được gọi chịu chức linh mục.

Ðến đây, chúng tôi xin nhấn mạnh đến những lợi ích vĩ đại do các trường thử, tiểu chủng viện và đại chủng viện đã đưa đến cho giáo hội VN nói riêng và cho người công giáo nói chung. Tại Mỹ, địa phận chỉ nhận các tu sĩ mãn trung học vào học thêm 4 năm triết và 4 năm thần học để chịu chức linh mục. Tại VN không thể làm như thế được, nhất là vào đầu thế kỷ 20. Lý do rất đơn giản: vì ở thôn quê rất ít trường tiểu học, nếu có thì chỉ dạy đến trình độ lớp 3, ngoài ra dân ta nghèo không có tiền cho con lên tỉnh du học bậc trung học. Các địa phận công giáo mở những trường thử, dạy chương trình tiểu học, TCV dạy chương trình trung học. ÐCV dạy chương trình đại học về Triết và Thần học. Những thanh thiếu niên mãn các chương trình nói trên, nếu được làm linh mục là tốt nhất. Nếu vì bất cứ lý do cá nhân hay gia đình không làm linh mục được, cũng có thể làm thầy giảng hay it ra những giáo dân với cănb ản học vấn khá có thể vừa tiến thân, vừa giúp ích cho giáo hội và quê hương. Chúng ta đã chứng kiến hàng ngàn cựu tu sĩ đang có địa vị trong xã hội, hay đang hăng hái tham gia vào các hội đoàn công giáo, tiến hành các hoạt động xã hội. Các chủng viện VN đã đóng góp rất lớn trong những thành công của họ.

(Nhà thờ Phú Nhai xây cất năm 1923 )

Ðức cha cũng lập trường thầy giảng, để đào tạo các thầy ra giúp các cha trong các xứ đạo. Năm 1908, mở nhà in tại Phú Nhai, để in các sách Việt Ngữ, chữ Nôm và chữ Hán. Ông Ðinh Xuân Phức, Costa Mesa, CA, vào thập niên 1930 là người hùng của máy in Pédale của nhà in Phú Nhai.

Năm 1916, nhân dịp kỷ niệm 700 năm thành lập dòng Ða Minh, với sự hiện diện của cha bề trên cả dòng Ða Minh từ Roma sang, ngài công bố lập Ðại Chủng Viện Thánh Albertô chung cho các địa phận do các cha Ða Minh quản trị. Mục đích là tăng hiệu lực cho việc giảng huấn. Thay vì mỗi địa phận tự tìm lấy ban giáo sư, thì các địa phận góp những giáo sư giỏi để đào tạo linh mục tương lai cho địa phận mình.

Các chủng sinh lại có cơ hội thi đua học tập mong rằng địa phận mình không thua kém địa phận khác.

Tới năm 1923, trong một trình đáng ghi nhớ của đời ngài là nhà thờ Phú Nhai. Theo lịch sử địa phận Trung kể lại, thì vào năm 1860, thời vua Tự Ðức đàn áp công giáo đẫm máu nhất, đức cha địa phận Bùi Chu lúc đó là Berriochoa Vinh và cha chính Riano Hòa khấn hứa xin Ðức Mẹ cho bằng an để giữ đạo, thì sẽ xây một đền thánh kính dâng Ðức Mẹ. Lời khấn hứa đã được Ðức Mẹ chấp nhận, vì thế giáo quyền địa phận cổ động quyên góp xây nhà thờ dâng kính Ðức Mẹ. Nhà thờ xây theo kiểu gothic, dài 88 mét, rộng 28 mét, 2 cây tháp cao 30 mét, do chính Y vẽ đồ án và trông nom công việc xây cất. Sau 7 năm công tác mới hoàn thành. Lễ cung hiến nhà thờ kính Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã được tổ chức rất long trọng vào ngày 8 tháng 12 năm 1923, do đức cha Munagori Trung chủ tọa với hầu hết các linh mục của địa phận và trên 50 ngàn giáo dân về tham dự. Trận bão ngày 30 tháng 9 năm 1929 đã làm nhà thờ bị hư hại nặng nề. Giáo dân lại quyên góp và đã sửa chữa xong vào năm 1933. Chúng tôi được biết ông Ðinh văn Tựa hiện ở San Antonio TX là người có công rất lớn trong việc xây cất lại nhà thờ Phú Nhai.

Năm 1926, nhân dịp lễ kỷ niệm ngày các cha Ða Minh tỉnh dòng Phi luật Tân tới giảng đạo tại VN được 250 năm, có đức khâm sứ toà thánh Aiuti tham dự, đại chủng viện thánh Albertô đã nâng lên hàng ÐCV miền.

Năm 1923, đức cha mời dòng Kín về lập nhà dòng tại Bùi Chu. Năm 1924, ngài xây trường trung học Saint Thomas, mời các sư huynh La San về quản trị và giảng dạy.

Năm 1933, nhân lễ kỷ niệm 25 năm giám mục của ngài, các cha tặng ngài mấy con số thống kê trong thời gian ngài làm giám mục như sau:
- 50,000 người trở lại đạo.
- 130,000 trẻ em bỏ rơi được đưa về nuôi tại cô nhi viện Bùi Chu.
- 250 nhà thờ mới được xây cất.
- 180 linh mục do ngài truyền chức.
- 73 họ đạo được thành lập.
- 15,000 tân tòng rải rác trong 270 họ giáo.
- 121,000 trẻ em học giáo lý trong 2337 lớp giáo lý.
- 70,000 trẻ em tiểu học trong 844 trường tiểu học.

Năm 1934, năm cuối cùng của đời giám muc, ngài xây tập viện Ða Minh tại Quần Phương để đào tạo thanh niên VN thành những sư huynh, những linh mục dòng Ða Minh. Trong ngày lễ chứng kuến các chủng sinh VN lần đầu tiên mặc áo, Ðức Cha quá mừng vui và cảm xúc thốt lên những câu: "Lạy Chúa, nay con đã sẵn sàng để Chúa đưa con về với Chúa..." Tập viện Ða Minh này tới năm 1940 đã trở thành trường sở của ÐCV Quần Phương.

Ðức cha qua đời ngày 17 tháng 6 năm 1936 và chôn cất tại Bùi Chu sau 48 năm liên tục tại địa phận Bùi Chu. Theo thỉnh cầu của ngài trong những năm trước khi qua đời, ngày mồng 9 tháng 3 năm 1936, tòa thánh đã chấp thuận lập địa phận Thái Bình tách khỏi địa phận Bùi Chu.


 Ðịa phận Thái Bình gồm 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên, sẽ tiếp tục được đặt dưới quyền coi sóc của các cha dòng Ða Minh. Ðịa phận Bùi Chu còn 2 phần 3 huyện Nghĩa Hưng và 5 huyện Xuân Trường, Giao thủy, Hải Hậu, Trực Ninh, Nam Trực của tỉnh Nam Ðịnh được trao cho hàng giáo sĩ VN do đức cha Hồ Ngọc Cẩn làm giám mục Phụ tá trông coi.Ngài đã đưa trường Hồ Ngọc Cẩn cùng toàn ban giám đốc di cư vào Nam đặt tại Gia Ðịnh cho tới năm 1956.
Từ 1957 tới 1959 LM Huynh dạy triết học tại chủng viện Phan xi Cô, Sài Gòn. Tới năm 1959 Ngài đề xướng thành lập trường trung học Hưng Ðạo (125 Cống Quỳnh Saigon) và làm giám đốc cho tới năm 1975.
Linh mục Huynh tị nạn tại giáo phận Lafayette, Lousianna từ 1975 dến tháng 2 1976. Sau đó chuyển sang tiểu bang Texas và giúp giáo dân VN tại San Antonio cho đến năm 1978. Hiện LM Huynh đang hưu trí tự túc và vẫn thuộc giáo phận San Antonio Texas.

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

HOÀNH ĐÔNG,NHỮNG GÌ TÔI BIẾT


HOÀNH ĐÔNG,Những Gì Tôi Biết

Chu Trinh

Thấm thoát đã hơn 60 năm,tôi xa Hoành Đông có lẽ là từ năm 1950 để về Liên Thủy chữa thương và đi học,tuy sau đó có trở lại mấy ngày,lúc Hiệp định đình chiến Geneve 1954 vừa ký kết.Đến năm 2004 tôi có trở lại nhân dịp đám tang Cha Phạm chí Thành xong lại trở về Miền Nam ngay,nhưng hơn 10 năm tuổi thơ sống ở Hoành Đông đã để lại trong lòng tôi biết bao tình cảm và những kỷ niệm không bao giờ quên.

Bây giờ viết về Hoành Đông thì miên man lắm,nhưng chỉ là những chuyện riêng tư.Hôm nay tôi xin nói về Hoành Đông một cách chung chung để các thế hệ trẻ có nhu cầu biết sơ về vùng đất một thuở là nơi khởi nghiệp của tổ tiên;vùng đất này là đứa con tự nhiên của quê hương Liên Thủy.Tuy nhiên cũng chỉ là sơ sơ thôi vì những tài liệu ghi lại về Hoành Đông hầu như chẳng còn gì.Lý do là hoàn cảnh đất nước loạn ly gần 100 năm qua,những vị có hiểu biết về chốn quê này lần lượt qua đời,chẳng để lại bút tích gì.Hơn nữa chúng tôi ở xa,cũng chẳng thể liên lạc được với các vị thức giả còn sinh sống ở quê nhà nên không thể có được các tin tức bổ sung vào cho đầy đủ.Mong quí đồng hương góp thêm tài liệu và ý kiến.

Hoành Đông là con đẻ của Liên Thủy
Bản đồ xã Giao Thiện
 



Nhà thờ mói Hoành Đông(theo svcg Bùi Chu)

 Hoành Đông nay thuộc Xóm 27,xã Giao Thiện,Huyện Giao Thủy,Tỉnh Nam Định.Còn truy theo lịch sử thì vùng đất này hình thành do sự bồi lấp của phù sa sông Hồng.
 
Chỉ trong vòng trên dưới một trăm năm kể từ sau khi “Hội phá Ba Lạt” 1787 (Hội Phá Ba Lạt là một biến cố lũ lụt lớn tách Vùng đất xã Nội Lang thuộc Tổng Đông Thành, Phủ Kiến Xương Tỉnh Thái Bình nằm về phía Tả ngạn sông Hồng, chuyển phần lớn diện tích từ Tả sang Hữu ngạn sông Hồng,  thuộc Huyện Giao Thủy , Tỉnh Nam Định. Ngày nay xã Giao Thiện gồm làng Hoành Đông,kế cận xã Giao Hương, ở gần cửa sông Ba Lạt hơn là do phù sa mới bồi lấp.Theo bản đổ Google cửa sông Hồng (cửa Ba Lạt)phù sa đã bồi lên hàng vạn hecta và với thời gian, vùng bồi lấp càng lớn dần.Cửa sông Ba Lạt mở rộng ra,muốn sang Thái Bình phải đi đò,còn trước đó chỉ bắc cầu tre buộc bằng BA CÁI LẠT. Đặc biệt khu vực cửa sông đã bồi thành khu Cồn Ngạn- Cồn Lu- Cồn Mờ được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển đất ngập mặn Nam đồng bằng sông Hồng, chứa đựng những hoạt động kiến tạo địa chất và đa dạng sinh học có có tầm quan trọng quốc tế . Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Nam Đồng bằng sông Hồng lớn hơn 105.558 Hecta, trong đó có 66.256 hecta đất liền ven biển, 39.302 hecta mặt nước thuộc 25 xã của các Huyện Kim Sơn  (Ninh Bình)- Nghĩa Hưng- Giao Thủy (Nam Định)- Tiền Hải- Thái Thụy ,Thái Bình .Nhưng khu này chỉ mới hình thành sau những năm 1954.
 
Công cuộc khai hoang lấn biển ở thời này được đánh dấu bằng sự kiện Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ lập ra tổng Hoành Thu vào năm 1828. Kế đó Phó bảng Đặng Kim Toán người Hành Thiện đã giúp dân tiến hành công cuộc khai hoang lập nên mảnh đất (tổng)Lạc Thiện (1). Theo truyền thuyết tại địa phương và tư liệu “Từ đường biên ký” của dòng họ Trần biên soạn năm Nhâm Tý (1912) thì công cuộc khai hoang của cụ Phó bảng Đặng Kim Toán được ghi cụ thể như sau: “Năm Tự Đức thứ 10 (1857), Phó bảng Đặng Kim Toán về đây khai hoang mở đất. Năm Tự Đức thứ 13 (1860), lấy cột đá chôn để phân định mốc giới, tiến hành làm hộ tịch và cấp quân điền cho nhân dân. Thống nhất lấy tên đất, tên làng theo tên gọi cũ thuộc huyện Xuân Trường để đặt tên cho làng xã vùng đất mới. Công cuộc khai hoang lấn biển tạo dựng làng xã quê hương ở vùng đất mới Giao Thiện là do cụ Phó bảng Đặng Kim Toán khới xướng diễn ra từ năm 1857 đến năm 1860 thì hoàn thành. Một vùng đất rộng lớn, phì nhiêu màu mỡ hiện nay thuộc các xã: Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân, Giao Thiện huyện Giao Thủy được hình thành và phát triển.

Cũng có tài liệu ghi :Triều Tự Đức năm thứ 7 (1858), một số người làng Hành Thiện kết hợp với một số người gốc Giao Thuỷ nhờ cụ Đặng Kim Toán (người làng Hành Thiện) là tổng đốc tỉnh Nghệ An dâng sớ xin triều đình cho khai khẩn đất mới ở Giao Thuỷ lập thành 8 ấp mới, các ấp đều lấy tên làng xã cũ đặt tên cho ấp mới là Phú Nhai(Phú Hương?), Phú Ninh, Hoành Đông ( Liên Thủy ), Thượng Phúc, Lạc Nghiệp, An Cư, Lục Thuỷ, Hoành Tam.


Còn theo cụ Phạm văn Vinh( nay đã trăm tuổi) ,cụ sinh ra tại ngay Hoành Đông thì Người Liên Thủy mua đất lập nghiệp ở Hoành Đông từ khoảng cuối thế kỷ 19 đầu 20 ,có các cụ Hương Tế,Ang,Hổ (con Thánh Ngôn ?),cụ Liễn(chi tộc cụ Trân),cụ Lang,cụ Trác và cánh cháu chắt cụ Quì.Điềm mặt những  hậu duệ của thánh Ngôn đã từng sống ở Hoành Đông như cụ Tiếu ( cháu nội Thánh Ngôn,con cụ HỔ)con là ông Bài(rể của cụ Phụng);cụ Phạm văn Bút(Trùm Đốc),Phạm văn Bạ v.v con cháu họ hiện còn sống tại Hoành Đông khá đông đảo như ô.Chi,ô.Rược( ô. trùm có công xây nhà thờ mới Hoành Đông,lúc Cha Thành về hưu tại Hoành Đông) và còn nhiều người nữa...

Con cháu cụ Quì ở Hoành Đông cũng chiếm đa số như Cụ Trùm Rư,cụ cố Quảng, cụ Phụng,cụ Trùm Chí,cụ Lý Huấn,cụ Vịnh.Ngoài ra còn các nhánh khác như các cụ Cực,Đoan ,Khới(con cháu cụ Trùm Khôi Liên Thủy,Cụ Lịch,cụ Khản,cụ  Trùm Tiên v.v.

Cụ Vinh cũng kể rằng lúc mới khai mở Hoành Đông,đê điều ngăn mặn chưa hoàn thiện,mỗi khi có bão lũ,nước ngập mênh mông,nhà thờ Hoành Đông chỉ là nhà tạm mái lá,vách đất,họ Hoành Đông thuộc xứ Phú Thọ.Đến năm 1930 có các cha Trị và cha Hưởng đứng ra xây nhà thờ kiên cố đầu tiên,nhờ đóng góp của mọi người vừa công vừa của và nhà thờ có mấy mẫu cói giao cho người ta thu hoạch lấy tiền mua vật liệu xây nhà thờ và phải 6 năm mới hoàn thành.

Con đường đi suốt từ Cửa Ba Lạt(ấp Phú Hương) rồi Phú Ninh qua làng Hoành Đông,Hoành Tam,Lạc Nghiệp ,Phú Thọ ...tới tận Ngô Đồng ngày tôi ở đó còn là đường đất,nhưng khá kiên cố.Nhà nào cũng có hàng rào bằng tre gai vây quanh nhà.Mỗi nhà đều có ao thả cá,có lẽ là cần lấy đất đắp nền nhà và vườn rau? Giống hệt Liên Thủy !

Nhà cửa ở Hoành Đông thường làm kiểu ba gian hai chái,cột thường bằng gỗ lim có chạm khắc rồng,phượng,nhưng vách tường có rất ít nhà được xây bằng gạch mà là phên tre hoặc cao hơn là bằng gỗ đóng thành một miếng khung gỗ lắp vào vừa một gian nhà.Vách còn làm bằng khung tre rồi nhồi bùn đất với rơm trét lên khung tre khá chắc chắn nhưng muốn bền phải tránh được nước mưa tạt vào nên mái nhà phải che được tường.

Ngoài nhà chính,ở Hoành Đông nhà nào cũng có nhà phụ,làm kề nhà chính ,thường làm theo góc thước thợ để trữ thóc,xay giã thóc gạo ,chuồng nuôi lợn,gà và chuồng trâu;ngoài ra còn có ao cá,vườn rau,chung quanh nhà là dậu tre.Chưa kể có cả một cái sân phơi thóc bằng đất nện,nhà khá thì trải vữa(vôi+mật ).

Mỗi nhà có đống rơm,đống rạ để dành cho trâu ăn khi mùa đông,mùa lũ không có cỏ cho trâu ăn và đế làm chất đốt nấu ăn hàng ngày

Mái nhà đa số được lợp bằng rạ là sản phẩm trồng lúa,riêng một số ít thì lợp bằng bổi có lẽ là cói dệt chiếu loại ra nhưng ngắn.Mái nhà lợp như vậy rất dầy có khi hơn một thước ta (0,40cm),rất bền,hơn hẳn lợp bằng rạ mau mục.

Ngoài con đường làng thẳng tắp,hai bên đường là nhà ở,còn có một con Đê Tràn ngăn sóng biển cách song song với đường làng khoảng 1km,bên ngoài đê là bãi bồi mỗi năm một rộng ra chỉ có cỏ năn  và sú vẹt mọc,xa xa là biển Đông mênh mông.Có lần tôi đã ra đó thả cho trâu ăn cỏ,như những người khác.Cứ để cho trâu tự do,đến chiều chúng tự tìm vào bờ đê và bọn trẻ lại cưỡi trâu về nhà!Trâu đi ăn cỏ sẽ bơi theo con sông ở giữa làng  chạy suốt từ Đầu Đạc(nhà cụ Trùm Chí) giáp sông Thanh Nhang tới bờ Đê Tràn.Hồi nhỏ tôi cứ tưởng con sông Hoành Đông to lắm,năm 2004 về nhìn lại thì thấy nó chỉ là con lạch nhỏ rộng khoảng 7m !Nhà cửa nay người làng đã xây dựng lại bằng các vật liệu mới,có đúc lầu bê tông,còn không thì cũng xây bằng gạch,lợp ngói.Hàng tre xanh đặc trưng làng quê Bắc Bộ nay phá hết trông quang đãng hơn,nhưng nó đã mang đi mất hồn quê mà người xa xứ vẫn hằng ấp ủ trong lòng.

Khai phá một vùng đất hoang toàn cỏ dại và sú vẹt,chưa có đê điều bảo vệ,chưa có nhà cửa đường đi,thì những người khai phá phải gian khổ thế nào,khỏi cần kể ai cũng biết, lại dùng toàn sức người !
Gian khổ biết chừng nào.

Hoành Đông nay đã có cha xứ chuyên trách,nhà thờ cũ đã được xây mới xinh đẹp như những hình ảnh độc giả đã thấy,do công đóng góp của nhiều người con Liên Thủy khắp nơi.Nhưng nó chỉ là một trong những đứa con của làng chính Liên Thủy mà vì sự phát triển của dòng họ Phạm rất lớn,không gian chật hẹp của Liên Thủy không đủ chỗ cho các con cái sinh sống nên phải bung ra  tới Hoành Đông và còn ở các khu ĐỆ NHỊ,ĐỆ TAM nữa,tuy không đông đúc như Hoành Đông,nhưng tất cả cũng là ba đứa con của mẹ Liên Thủy.

Trước đây sáng tối,chuông nhà thờ reo vang và mọi người lại hướng vế nhà thờ để cầu nguyện dù không có linh mục,ngày nay chắc càng sầm uất hơn vì có chủ chiên hướng dẫn.

Đời người ít ai được một trăm năm,nhưng 100 năm qua đi rất nhanh và thế giới chung quanh thay đổi rất nhiều.Hoành Đông cũng đã chật chội và con cháu Hoành Đông sẽ phải bung đi những nơi khác như cha ông Liên Thủy để tìm đất sống,không chỉ ở trong nước và còn khắp năm châu.Ai biết được tương lai ?


(1) Trước năm 1954, Hoành Đông là xã Đông Thiện,thuộc Tổng Lạc Thiện,Huyện Giao Thủy,tỉnh Bùi Chu.