Hiển thị các bài đăng có nhãn sưu tầm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sưu tầm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

ĐÁM MA NGƯỜI NGOẠI ĐẠO

Đám Ma Người Ngoại Đạo

Tác giả : Hoàng Trần
Đám Ma Người Ngoại Đạo
 

Tiếng điện thoại reo làm Minh giật mình, giấc ngủ chưa làm anh lại sức sau một đêm làm việc. Anh uể oải:
- Minh đang nghe.
- Con là Thiên. Ba con mất rồi chú ơi.
Minh tỉnh hẳn:
- Con nói cái gì" Nói lại chú nghe.
- Ba Phi mất rồi.
Minh sững người một lúc lâu, chuyện không thể ngờ được. Bạn anh còn khỏe lắm, đâu có đau bịnh gì, tại sao lại như vậy được. Minh nói với Thiên:
- Chú thím sẽ ghé lại nhà con liền. Để chú báo tin cho bác Cả. Con lo chăm sóc mẹ nghe con.
Phi là bạn nối khố của Minh từ những ngày còn học đại học ở quê nhà. Hắn có một sức khỏe ít ai bì kịp. Những bữa ăn thiếu thốn ở bếp tập thể không làm giảm đi chút nào cái sức lực của Phi, nhìn hắn nhanh nhẹn chạy nhảy trong sân bóng rổ khiến ngưới ta nghĩ tới một con báo đang săn mồi. Những buổi hai đứa học chung với nhau Minh mới thấy nể cái sức dẻo dai của Phi. Hắn đứng suốt buổi trên bảng để giải hết bài toán này sang bài toán khác mà không biết mệt trong khi Minh thấy đuối sức mặc dù đã nghỉ giải lao mấy lần rồi. Cái sức khỏe đó tuy không còn nguyên vẹn sau nhiều năm vật lộn với đời sống, nhưng đối với Phi, bác sĩ là những người lạ chỉ được nghe nói tới chớ chưa hề được gặp mặt bao giờ. Cái tin của thằng con Phi vừa thông báo quả là khó tin quá. Minh nhấc điện thoại, bấm số:
- Anh Cả này, Phi mất rồi!
Giọng sửng sốt từ đầu dây bên kia:
- Phi nào"
- Còn Phi nào nữa! Tôi cũng chỉ nghe thằng Thiên báo tin thôi, chưa rõ hư thực ra sao. Anh chị đến ngay nhà nó nghen, hẹn gặp ở đó.
Bộ ba này quen biết với nhau chẳng có gì ngạc nhiên. Kẻ trước người sau, kẻ máy bay người ghe máy, bọn họ cùng lưu lạc đến một tiểu bang ít người Việt và dễ dàng gặp lại nhau bằng những mối quan hệ dích dắc đã có từ quê nhà. Vân vợ của Minh và Thương vợ của Cả là bạn học cũ; Minh và Phi là bạn học cũ; rồi Hương, vợ Phi là hàng xóm của Minh ở Việt Nam. Nhưng bộ ba này thân nhau thì ngay chính họ cũng ngạc nhiên! Mỗi người dường như có một tính cách và cách nhìn sự việc khác nhau lắm.
Phi có cái đầu óc nhạy bén của một nhà khoa học, cách làm việc của một nhà nghiên cứu. Nghe chuyện gì anh cũng không phủ nhận hoặc xác nhận ngay mà tìm hiểu, hỏi han đến nơi đến chốn rồi kết luận theo những suy nghĩ của mình, đôi khi thật bất ngờ. Thời đi học, anh say mê môn Toán đến độ có lần tâm sự với Minh:
- Tao sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì mình có để được học toán vài năm ở Princeton University. 
- Mày có gì để đổi" Minh hỏi:
Phi cười trừ và tiếp tục mơ mộng trong một giờ giải lao giữa buổi học. Trôi giạt sang xứ người, ông cựu thầy giáo toán kiên trì học trở lại và trở thành kỹ sư của một công ty điện tử. 
Anh Cả là người trăn trở nhiều về đời sống tâm linh. Hai vợ chồng có lẽ đã tìm thấy một điều gì đó trong thiền học, anh thường xuyên theo học và thực tập các khóa thiền. Gần đây hai vợ chồng lại ăn chay trường. 
Minh theo học cùng ngành toán với Phi chỉ vì sau khi xong trung học anh thấy cái môn học này thu hút anh hơn cả. Học xong anh chỉ còn lại cái khả năng suy luận logic sau bao năm không xài đến kiến thức. Rồi những lận đận của cuộc đời đã khiến cho những suy luận này nặng phần thực tế, đôi khi có chút hoài nghi về những điều quá trừu tượng đối với anh. 
Họ gặp nhau thường xuyên, bất đồng ý kiến thường xuyên, nhưng ý ai người đó giữ, giữa họ vẫn có cái tình thân anh em với nhau. Mới tuần rồi, tại buổi tiệc sinh nhật Minh, anh và Phi đang hào hứng thưởng thức dĩa tiết canh thì Cả cũng nâng ly trà lên:
- Chúc mừng cậu đạt cái tuổi tri thiên mệnh.
Minh nâng chai bia đáp lại:
- Anh mừng cho tui thì anh cũng phải vui với tui một chai và thưởng thức cái món tiết canh tuyệt vời này mới được. Giữ gìn chay tịnh rồi đến cuối đời mới phát hiện cái thiên đường của mình nó không có thì tiếc lắm. Ai lại nãy giờ toàn nước trà với đậu phộng không vậy, coi sao được"
Phi lý giải ngay:
- Thịt hay đậu thì cuối cùng cũng biến thành Protein cả thôi. Ảnh cũng đến đích bằng con đường của mình, sao cậu cố chấp quá vậy"
Minh cãi:
- Thì cũng có con đường dễ đi, con đường khó đi chớ bộ. Đi máy bay khỏe hơn đi ghe, đúng không"
Anh Cả giải thích:
- Duyên phận cả thôi các vị ạ.
Mãi suy nghĩ vẩn vơ, hai vợ chồng Minh đã đến nhà Phi. Vợ chồng anh Cả cũng vừa tới. Cái tin quá bất ngờ làm cả bốn người đều hoang mang. Tất cả vội vã đi vào sân nhà Phi.
**
Con của Phi là Thiên ra mở cửa cho mọi người vào. Thằng bé nay đã lớn, nó đang học năm cuối trung học, trông chững chạc và bình tĩnh. Nó chào và mời các bác, cô chú vào phòng khách. Hương đang ngồi nói chuyện với vợ chồng thằng Thái em của nàng. Mắt mũi Hương đỏ gay, giọng nói sũng nước mắt nàng kể lại:
- Sáng Hương đi làm về thấy anh Phi vẫn chưa thức dậy để chuẩn bị đi làm như mọi hôm thì cứ nghĩ ảnh ngủ quên. Đến khi Hương kêu hoài không thấy ảnh ư hử và động tĩnh thì sinh nghi, tới lay ảnh mới hay ảnh đã chết tự lúc nào. Hương vội kêu xe cứu thương chở anh vào bệnh viện nhưng bác sĩ khám xác cho biết ảnh bị sụt huyết áp chết vào khoảng từ 2 tới 3 giờ sáng. Có lẽ thằng Thiên ngủ say không biết gì, sáng sớm nó đón xe đi học sớm cũng chẳng hay! Bác sĩ pháp y phải mổ khám xác để xem cái chết của anh có gì khả nghi không, rồi cảnh sát điều tra hỏi han hai mẹ con đủ cả từ sáng đến 3 giờ chiều mới cho chở ảnh đến nhà quàng. 
Mọi người yên lặng, Phi ra đi đột ngột quá, ai cũng sững sờ. Mỗi người một câu an ủi Hương và Thiên. Minh nhớ lại hai mươi lăm năm trước anh cũng nhận được cái tin ba của Phi mất do huyết áp tăng cao đột ngột. Nay Phi lại ra đi do huyết áp tụt, thật là chuyện ngược đời đã xảy đến cho hai cha con họ. Minh nhớ đến một câu chuyện đọc được trong truyện Tàu ngày còn bé mà anh quên mất tên nhân vật - Có một vị tướng gặp một chuyện tức cười, cười đến độ thắt ruột mà chết, người con đau buồn quá khóc cha đến nỗi đứt hơi rồi cũng chết luôn! Chuyện nghe như một chuyện tiếu lâm vậy mà cũng xảy ra với bạn mình. Không biết nghe chuyện này anh Cả có thuyết cho mình nghe một bài giảng về cái nghiệp chướng gì đó nữa hay không, Minh thầm nghĩ.
Anh Cả đề nghị với Hương:
- Chị đã liên lạc với các thầy để nhờ đến tụng kinh siêu độ và làm tang lễ cho anh Phi chưa" Nếu chưa thì để tôi gọi phone nhờ họ cho, tôi có quen biết với mấy cô thầy trong bang tụng niệm.
Minh can:
- Không biết ý chị Hương thế nào chứ mấy tháng trước bọn mình đi đám ma của bác Sâm, tôi nhớ có nghe Phi nói là khi hắn chết không muốn có ban tụng niệm tới đọc kinh. Nghe kinh hắn thấy buồn lắm! Rồi người nhà vừa đau khổ vừa mệt mà phải quỳ lên quỳ xuống thật tội nghiệp. 
Hương nhớ lại ngày ấy, chỉ mới ba tháng trước. Vợ chồng nàng và vợ chồng Minh có đến nhà quàng thăm viếng Bác Sâm là người hàng xóm với nàng và Minh từ hồi còn ở Việt nam bị mất vì bịnh già. Phi nhìn ban tụng niệm đang đọc kinh ê a, còn gia đình các con của Bác Sâm thì đang sì sụp quì lạy mà nói như thế. Anh còn nói với nàng:
- Tại sao phải làm người đưa tiễn buồn thảm khóc than" Anh nghĩ là khi anh chết, không có mời thầy làm lễ mà sẽ chiếu một DVD do anh tự biên tự diễn. Anh sẽ nói những lời đùa vui, chọc cười mọi người. Phải có một không khí như đưa tiễn anh đi di cư tới một thế giới khác sinh sống vậy. 
Hương thấy ý chồng cũng hay hay, nàng nói giỡn theo:
- Vậy thì anh phải chuẩn bị làm cái DVD ngay là vừa. Bây giờ lên màn ảnh tướng tá còn đẹp trai, chứ để già rồi nói năng thều thào không ai hiểu. Với lại lỡ chết bất đắc kỳ tử em còn biết đường mà lo chứ!
Vậy mà không ngờ những lời nói đùa lại thành sự thật. Nàng biết là Phi cũng đã xúc tiến tự làm cái DVD đặc biệt này rồi. Có phải là một điềm gỡ chăng" Hương xác nhận lời Minh:
- Anh Minh nói đúng đó. Anh Phi rất sợ nghe cái tiếng gõ mõ tụng kinh trong đám ma. Hồi Ba ảnh chết bên quê nhà, có mời thầy cúng về làm lễ. Con cháu phải cúng bái quỳ lạy suốt ngày ai cũng lả ra, vừa buồn vừa mệt. Ảnh cứ nhắc đi nhắc lại cái chuyện này và nói nếu ảnh chết nên tổ chức tang lễ sao cho ít mệt nhọc và buồn bã cho mọi người.
Thương bàn:
- Nhưng như vậy thì đâu có được. Ảnh chết xuống phải có thầy đọc kinh siêu độ và đưa đường để ảnh về nơi cực lạc chớ. 
Hương sống với chồng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng cái tính duy lý, khoa học của Phi. Nhưng khi gặp chuyện bất hạnh, đau khổ thì lý trí nàng có phần bị dao động, và hoang mang. Hương thẫn thờ nói: 
- Hương không biết tính sao nữa. Không mời thầy về làm lễ thì mình không an tâm. Thêm nữa người ta sẽ nói mình này nọ, vô thần vô thánh không giống ai. Mà mời thầy về thì trái ý với anh Phi...
Thằng Thiên chen vào:
- Con thấy mình cứ đi tìm xem cái DVD Ba làm xong chưa và Ba nói gì trong đó thì mình cứ theo ý Ba mà làm. 
Hương và Thiên vào phòng làm việc của Phi lục lọi, một lát sau đưa ra một cái DVD mà Phi đặt tên "Chào quý vị tôi đi đây!". Mọi người chiếu coi thử và sau đó đồng ý để Hương tổ chức tang lễ theo ý Phi. Mỗi người một tay chia nhau công việc để phụ giúp thêm cho ngày thăm viếng ở nhà quàng và ngày đưa Phi đi thiêu.
Hương cho mọi người biết thêm, cách đây một năm, Phi có đọc một bài báo nói về chuyện dùng tro của hài cốt làm thành viên kim cương để lại cho người thân. Anh tâm đắc chuyện này lắm và nói với Hương:
- Mai này, nếu em đi trước, anh sẽ làm một viên kim cương để lắp nó vào chiếc nhẫn cưới của mình và luôn luôn nhớ tới em. Nhưng nếu anh đi trước, anh không yêu cầu em phải làm một việc tương tự. Có lẽ em cần một người bạn đường để đi tiếp phần đời còn lại hơn là một kỷ vật của quá khứ, nó chỉ là một vật cản đường mà thôi. Miễn em vui được là tốt rồi. Nói thì nói vậy nhưng tùy em.
Hương tiếp:
- Nhờ anh Minh lo dùm Hương việc này nhé! Hương nhớ là anh Phi tìm thông tin trong trang web "dust to diamonds" gì đó. Anh liên hệ với chỗ làm kim cương để lấy tro cốt anh Phi làm cho Hương một viên để gắn vào nhẫn cưới.
Mọi người chia tay. Trên đường về, Minh nói với Vân:
- Anh mà chết đi, em phải làm viên kim cương gắn vào sợi dây chuyền đeo cổ. Có như vậy anh mới kiểm tra được những nhịp đập lỗi nhịp của trái tim em. Mình đã hứa với nhau "trăm năm hạnh phúc". Chưa hết trăm năm em đừng hòng quay lưng với anh.
- Bày đặt nói văn hoa kiểm tra nhịp tim. Chết rồi mà còn dê ông tướng ơi. Thôi để em đi trước, khỏi phải lo suốt đời bị ma ám! 
- Nhưng cũng phải từ từ, đợi đến khi lọm khọm rồi hẵn đi. Bây giờ em vẫn còn hấp dẫn mấy lão ma sồn sồn đang hồi xuân lắm. Anh không có cách nào kiểm soát mấy con ma đâu. Em đi sớm quá anh không yên tâm.
Ở một hướng khác của xa lộ, Cả cũng ưu tư:
- Anh ra đi rồi, em đem tro cốt của anh rải tung khắp nơi để linh hồn anh không còn nơi vương vấn, mới siêu thoát được.
Thương bùi ngùi:
- Anh cũng làm như vậy với em. Duyên đã tận thì cố mà cầm giữ làm gì.
*
Nơi cửa vào nhà quàn, Hương và thằng Thiên đang đứng tiếp khách đến viếng, trên ngực áo trái mỗi người đeo một cái huy hiệu nhỏ có in hình của Phi đang tươi cười. Không có khăn sô, áo tang. Mỗi người khách đến viếng được gắn một cái huy hiệu tương tự để làm kỷ niệm. 
Quan tài người chết được đặt giữa phòng. Bên cạnh là cái TV khổ lớn. Những vòng hoa rực rỡ để đầy hai bên quan tài và TV. Ghế ngồi của khách được kê theo hình bán nguyệt đối diện với áo quan và màn hình TV. Phía sau các hàng ghế này là hai cái bàn lớn kê hai bên, trên đó bày sẵn nước giải khát và các khay thức ăn nguội dành cho một buổi tiệc nhẹ thân mật.
Đợi khách ngồi vào chỗ xong, thằng Thiên bước đến cạnh quan tài, nó buồn buồn nhìn khắp cử tọa, giọng run run:
- Tang lễ được tiến hành theo ý của Ba con. 
Nó quay sang nhìn vào quan tài, nói nhỏ:
- Khách tới đủ rồi, Ba bắt đầu đi Ba.
Thiên cầm cái remote control bấm vào một cái nút. Hình ảnh Phi hiện rõ dần trên màn hình TV. Hắn mỉm cười, cất giọng:
- Cám ơn các vị đã đến đưa tiễn tôi. Cuộc tiễn đưa nào cũng buồn cả nên tôi cố làm cho nó bớt ảm đạm được chút nào hay chút đó. Tôi không tổ chức lễ tang cho mình. Cái lễ này nó buồn và cũng như các thứ lễ nghi khác, ít nhiều mang tính hình thức sẽ làm cho mọi người mệt mỏi và buồn thêm, nhất là vợ con tôi. Diêm vương đã gọi tôi về thế giới của ngài, các quan chức của ngài hẳn đã lo hộ chiếu và các thủ tục xong cả rồi, có trễ một chút cũng không sao, tôi có đủ thì giờ để đợi. Cho nên tôi không muốn các bạn làm thủ tục tiễn chân tôi rườm rà làm gì cho mệt. Chúng ta dành thời giờ đó cho một bữa tiệc nhẹ đưa tiễn sẽ thân mật và ấm cúng hơn. Có nước uống và ít thức ăn sau dãy ghế ngồi của các bạn, xin tự nhiên. Hương, coi tiếp khách cho anh nghe. Thiên, con ra giúp Má đi con.
Màn hình chuyển sang cảnh gia đình Phi đang tổ chức party với bạn bè một năm trước đó, phần âm thanh được lồng bằng bài hát "Cát bụi" của nhạc sĩ Trịnh công Sơn do chính Phi hát và đệm guitar. Bài hát chấm dứt. Hình ảnh Phi lại hiện lên màng hình, hắn nheo mắt:
- Quí vị vừa ăn uống vừa nói chuyện tự nhiên nghen. Để tui nói chuyện với Má sắp nhỏ một chút rồi quay lại với quí vị ngay. Hương nè, nhất định bữa nay em không được khóc đó nghe, mấy chục năm rồi mà anh vẫn lúng túng khi nghe em khóc. Em cười như cái lần mình mới gặp nó sẽ làm anh lâng lâng như hồi đó và ra đi nhẹ nhàng hơn nhiều. Sau ngày hôm nay em nên nghỉ phép về quê một chuyến, hay đi du lịch đâu đó với bạn bè cho khuây khỏa. Ở nhà buồn rồi khóc không ích gì. Thấy vẫn còn buồn thì nên đổi nhà khác, hy vọng khung cảnh mới sẽ làm em dễ chịu hơn. Anh muốn nhắc chuyện này giữa chốn công cộng với hy vọng bạn bè biết cái ý của anh để có cách giúp đỡ em sau này, phần dặn riêng cho em và con anh thu lại trong cái DVD còn lại, để chung bên cạnh cái DVD này, anh có dặn dò Thiên nhiều chuyện nữa. Không cần gấp đâu, khi nào bình tỉnh thì hai mẹ con mở ra coi cũng được. Thiên, sau bữa chia tay này con đại diện Ba bắt tay từ giã bạn bè hộ Ba. Bây giờ con là người đàn ông trong nhà, phải cố lên, ba đặt hết kỳ vọng vào con.
Trên màng ảnh, Phi đang cầm một cái đùi gà chiên, Minh nhận ra cái hộp giấy KFC bên cạnh, hắn cắn một miếng, vừa nhai ngồm ngoàm vừa nheo mắt:
- Bịn rịn thê tử một chút, thông cảm nghen quí vị. Nhắc tất cả quí vị chuyện này - Sau khi tôi dứt lời, quí vị có phát biểu cũng xin đừng khen tôi tưới hột sen nghe không, có sao nói vậy cho nó thân mật, đừng làm như tôi chết rồi vậy.
Nghe tới đây Minh cũng phải bật cười. Không ngờ cái buổi họp mặt này nó sống động hơn hôm anh coi cái DVD lần đầu ở nhà Phi. Không khí quả thật có buồn nhưng không đến nỗi ảm đạm quá. Minh thầm nghĩ, sao cái anh chàng này không làm đạo diễn điện ảnh, kể cũng tiếc thiệt!
Cái DVD tiếp tục chiếu hình ảnh Phi đang bông đùa với người này, nhắc lại một kỷ niệm với người khác. Kể một câu chuyện tiếu lâm... Biết sắp tới đoạn hắn nói chuyện với mình, Minh chú ý hơn:
- Minh này, nãy giờ nghe tao bốc phét chắc mày ngứa miệng muốn cãi lắm phải không, ít gì trong đầu mày cũng đang nghĩ rằng "cái thằng cha này lúc sống chẳng lẩm cẩm tí nào mà chết rồi lại nói năng lẩm cẩm, làm gì có cái thế giới của người chết mà đòi đi xa, rồi nhắn nhủ tùm lum". Có phải như vậy không anh bạn" Không đâu, tao đang nói năng hết sức logic đó. Mày có còn nhớ một vài bài toán cần chứng minh là "nếu một phương trình có nghiệm thì nghiệm đó là duy nhất"" Cách chứng minh có phải là ta giả sử nghiệm tồn tại, chứng minh nó duy nhất trước, rồi quay sang chứng minh nó tồn tại sau. Cũng như vậy, tao nhắn nhủ với tất cả rằng tao không mất đi mà vẫn tồn tại, chí ít cũng trong đầu óc bạn bè, đúng không" Hơn nữa, mày chắc còn nhớ cái định luật bảo toàn năng lượng chớ" "Vật chất không tự sinh ra và mất đi mà chỉ chuyển từ một dạng năng lượng này sang một dạng năng lượng khác mà thôi". Như vậy có thể có cái thế giới cho tao chớ, phải không" 
Phi ngưng nói, bưng lon bia uống một ngụm lớn rồi tiếp:
- Này có phải mày lại nghĩ là tại sao lại không có một giao lưu nào giữa hai thế giới" Có thể là chưa có ai nghĩ ra được một ngôn ngữ chung để giao tiếp mà thôi. Đợi đó, biết đâu tao sẽ thành công trong đề tài nghiên cứu này, hay là đề tài chuyển đổi các dạng năng lượng với nhau để có thể gặp lại mày cho mày tin. Nhưng trước khi tao thành công, đừng tự động đi gặp tao, tao không hoan nghênh mày chút nào đâu. Tao sẽ đá đít mày đó, không chừng sẽ còn chửi là đồ ngu nữa nếu lúc đó tao đang cáu.
Minh chợt nhớ lại cái thời hai đứa học chung với nhau, anh có cảm giác Phi đang cố giảng cho anh một bài toán khó mà anh vẫn lờ mờ. Anh thấy lại cái thế giới say mê nghiên cứu của một người bạn thuở thiếu thời mà lâu nay bị vùi lấp mất trong cái mớ bòng bong của đời sống. Anh nói thầm với Phi:
- Ước rằng mày đang ở một thế giới không có quá nhiều chuyện phải lo để có thể bắt đầu thực hiện những say mê của mình. Phi ơi!
Phi lại nói tiếp:
- Minh này, tao cũng thấy tiếc là không còn có được những buổi thảo luận với mày và anh Cả. Những dị biệt không là gì cả, miễn là mình vững tin vào con đường của mình là được. Tao tôn trọng niềm tin của anh Cả cũng như thú vị với những suy nghĩ của mày. Hãy tiếp tục sống hết mình với suy nghĩ của mình đi nhé.
Minh lại thừ người ra thầm nghĩ:
- Bây giờ thì tao hiểu rồi, Phi ơi. Chắc chắn là sau ngày hôm nay sẽ có nhiều định đề cần phải xét lại như Lobasepski đã xét lại định đề thứ năm của hình học Euclid.
Trên màn hình, Phi nhấp một ngụm bia, tay xoay xoay cái lon và tiếp tục:
- Anh Cả nè! Tôi có giải thích thế nào đi nữa chắc anh cũng không an lòng về cái đám tang không đúng thủ tục này phải không. Xin anh chị đừng lo vì dù cho có làm đúng mọi thủ tục đi nữa tôi cũng không thể nào đến được chốn cực lạc, bồng lai. Cả đời tôi, tôi sống ngược với các nguyên tắc đạo hạnh căn bản của các vị bồ tát thì lý nào khi ra đi chỉ nhờ vào một vài thủ tục của thân nhân mà tôi lại lọt dễ dàng vào cổng thiên đường! Này nhé, cái nguyên tắc căn bản đầu tiên theo tôi biết là diệt dục, mà cả đời tôi đã xây dựng ngày càng nhiều những ước mơ, những mục đích. Đạt được điều này tôi tiếp tục xây dựng điều khác. Nếu bỏ hết những tham sân si đó thì chắc là tôi đang sống vất vưởng ở đâu đó, người không ra người ngợm không ra ngợm hay là đã  giã từ cái chốn trần gian ô trọc này từ lâu lắm rồi.
Phi tiếp:
- Mấy anh em mình đã có nhiều thảo luận về lĩnh vực này nhiều rồi, anh có niềm tin, tôi có sự hoài nghi, Minh phủ nhận. Mà giờ này thì những suy nghĩ cũng chẳng có ý nghĩa gì, tôi đang có cơ hội để kiểm chứng những điều đã được nghe nói thường xuyên trong cuộc sống. Xin anh cầu nguyện cho thằng bạn lắm chuyện của mình, Cả nhé.
Phi lại nhìn khắp lượt từ trái sang phải, giọng tiếc rẻ:
- Tiếc là tôi không hầu chuyện được với tất cả các bạn, nhưng tôi tin là mọi người sẽ thông cảm. 
Màn hình chuyển sang slide show những hình ảnh của Phi từ những năm Phi còn là một cậu bé cho tới thời gian gần đây với những đoạn home video. Cuối cùng, anh lại xuất hiện trên màn hình:
- Các bạn chắc có nhiểu điều muốn nói với tôi, xin mời. Ngày mai có rảnh thì đến đưa tôi chặng cuối nhé. 
Bạn bè lần lượt lên kể cho nhau nghe những kỷ niệm của mình với Phi, vui có, buồn có. Lúc này cái không khí có vẻ sôi động hơn là khi mọi người nghe Phi trên TV. Thỉnh thoảng cũng có những tiếng cười. Cuối buổi mọi người chia tay, hẹn nhau ngày mai sẽ đưa anh đến lò thiêu.
*
Buổi sáng đưa Phi đi thật là một buổi sáng ảm đạm, Minh nối đuôi theo đoàn xe, anh mong con đường dài ra mãi và không bao giờ đến cái điểm chia tay. Nhưng rồi cũng đến lúc quan tài bạn được chuyển vào lò thiêu. Cái máy CD được thằng Thiên nhấn nút:
- Thôi, cũng đến lúc chia tay, xin chào tất cả các bạn.
Tiếng Hương òa lên khóc lớn, tiếng cái máy CD rớt xuống nền nhà, tiếng thằng Thiên nấc lên:
- Ba ơi!
Nhiều tiếng sụt sịt. Minh cảm thấy môi mình mằn mặn, miệng đắng ngắt.
HOÀNG TRẦN

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

LỤC THỦY TRONG THỜI KỲ CẤM ĐẠO

LỤC THỦY TRONG THỜI NHÀ NGUYỄN CẤM ĐẠO

Liên tiếp trong hai thế kỷ XVII và XVIII, Giáo Hội Việt Nam đã trải qua nhiều cơn cấm cách bi thương, nhưng những nỗi cực khổ gian chuân đó vẫn chưa thấm thìa gì nếu so với sự bách đạo trong thời nhà Nguyễn hồi trung tuần thế kỷ XIX.
Thực vậy, lịch sử cho biết trong các triều đại Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1821-1847), và nhất là Tự Đức (1847-1883), người Công Giáo Việt Nam đã phải sống cuộc đời vô cùng lầm than tủi nhục.
Qua những sắc dụ cấm đạo ban hành vào những năm 1848, 1851, 1855, 1857, 1859 và nhất là sắc dụ năm 1861, nhà vua đã tìm mọi mưu kế độc ác để tận diệt đạo Công Giáo trong nước. Trong sắc dụ cấm đạo ban hành tháng 9 năm 1855, có đoạn :
"Phải tiêu huỷ tất cả các nhà thờ, nhà xứ, và phải lấp tất cả những hầm hố trong nước. Cấm chỉ bọn theo đạo Gia-tô không được hội họp tụ tập vào một nơi đê cầu nguyện. Tóm lại, các quan quân phải tìm mọi biện pháp để tiêu diệt bọn Gia-tô tả đạo này…”
Tuy nhiên vẫn chưa ghê gớm kinh khủng bằng sắc dụ của vua Tự Đức ngày mồng 5 tháng 8 năm1861. Sắc dụ này đã làm cho bổn đạo phải cơn lâm nguy cùng cực, và tất cả điền sản đều bị tiêu tán. Theo Ravier, sắc dụ này đã viết :
"Điều thứ nhất, hễ ai có đạo Gia-tô, dù nam nữ già trẻ thì phải phân sáp vào các làng bên lương dân. Điều thứ hai, trong những làng lương dân, cứ năm người dân thì phải nhận một quân Gia-tô (để canh chừng). Điều thứ ba, các làng toàn tòng Công Giáo phải phá bình địa. Điều thứ bốn, các điền thổ những làng ấy phải phân chia cho các làng lân cận cày cấy và nộp thuế cho vua. Điều thứ năm, các kẻ đi Gia-tô phải thích tự vào má, một bên hai chữ “Tả đạo”, một bên tên phủ huyện" .
* * *

1. Tình trạng khổ cực của dân làng
Đó là tình trạng chung trong nước, nhưng riêng địa phận Trung Kỳ, một địa phận rất đông giáo hữu, và không may lại thuộc quyền cai trị liên tiếp của Trịnh Quang Khanh và Nguyễn Đình Hưng, là những vị quan nổi tiếng thù ghét đạo Công Giáo thì số phận lại cực kỳ bi đát. Trong bức thư đề ngày mồng hai tháng 8 năm 1862, cố chính Estevez Nam, một linh mục dòng Đa-minh, đã ghi lại thảm cảnh mà giáo hữu trong địa phận phải chịu do sắc dụ ngày mồng 5 tháng 8 nám 1861đem lại như sau :                                                                                     "Vua liệu cho bổn đạo mất hết của, ra bần cùng, đoạn khi kẻ ấy chẳng còn biết nương tựa vào đâu, thì mới bắt chối đạo, chẳng chối thì phải đóng gông xiềng đóng xiềng cùm, phải đòn vọt khảo kìm, kéo giãn chân tay, hay là giá hiệu (?), cùng nhiều hình khác như vậy. Các địa phận phải cơn ngặt nghèo này như nhau, song địa phận Trung Kỳ này còn khôn nạn hơn các nơi khác, hoặc vì bổn đạo đông hơn, hoặc vì quan tổng đốc Nam Định có tính dữ tợn quá sức, cho nên đã đặt tên là Néro đàng ngoài. Như các nơi khác khi bắt bổn đạo đi phân sáp, thì còn cho phép bán nhà lấy tiền, song trong tỉnh này chẳng được. Quân dữ bắt ra khỏi nhà, trói từng lớp năm người, chỉ cho đem mấy nắm gạo đủ ăn một hai ngày mà thôi, mà có khi kẻ ngoại lại chẳng cho lấy gì mà thổi. Vậy có kẻ còn được đi ăn mày các chợ lân cận, nhưng mà các kẻ phải cầm tù còn lấy đâu mà đi, nên đã có nhiều kẻ phải chết rũ tù" .
Khi nhận xét về thái độ bạo tàn của tổng đốc Nguyễn Đình Hưng đối với bổn đạo thời đó, sử gia Ravier đã không ngần ngại hạ bút :
"Trong các kỳ cấm đạo trước, thì các quan bắt bổn đạo quá khóa rồi được tha về. Nhưng mà quan thượng Hưng dữ hơn hùm, độc hơn quỷ địa ngục, đã đáng gọi là Néro nước An Nam. Khi nó thấy bổn đạo đã quá khóa rồi, thì bắt các kẻ ấy cầm roi đánh vào kẻ bất khẳng năm roi, lại đánh năm roi vào ảnh Chuộc Tội, cùng chửi rủa những lời gớm ghiếc ; đoạn phải đốt hương thờ lạy bụt thần trước mặt các quan và thề buộc mình chẳng tin đạo Đức Giê-su nữa ; lại phải làm tờ bỏ đạo cho quan giữ ; sau hết còn phải mang gông mà làm những việc hèn trong thành đã ba tháng nữa, đoạn mới được tha về nhà" .
Trong hồi nhà Nguyễn cấm đạo, đặc biệt là vào thời Tự Đức, tất cả những cơ sở tôn giáo trong địa phận Trung Kỳ đều bị triệt hạ hoàn toàn, về sau khi đã tha đạo rồi, mới dần dần được tái thiết lại .
* * *
Như chúng tôi dã trình bày trong một đoạn trên, Lục Thủy là một trong những xứ đạo kỳ cựu và giữ địa vị quan trọng ở địa phận Trung Kỳ ngày trước, mà lại ở gần Bùi Chu là nơi Toà Giám mục toa lạc, nên trong thời bách đạo nhà Nguyễn, dân làng đã phải chịu nhiều nỗi điêu đứng khốn cực mọi đàng. Lắm gia đình chẳng những tài sản bị cướp bóc, mà lại còn lâm cảnh nheo nhóc ly tán, vợ xa chồng, cha con lìa nhau ...
Sau đày, chúng tôi xin trích dẫn lời của một số kỳ lão đã được chính các bậc phụ huynh mình (là những người đã từng sống trong giai đoạn cực kỳ đau khổ này) kể lại cho nghe những việc xảy ra đương thời. Trước nhất, ông Vũ Ngọc Hoành (1876-1958) đã viết :
"Trong thời vua Tự Đức câm đạo, giáo hữu Lục Thúy nhiều người bị đày đi phương xa, của cải ruộng đất bị người khác chiếm mất cả. Đến lúc được tha đạo trở về làng, thì dân chúng trong làng đều lâm cảnh nghèo túng cùng kiệt ; nếu ai còn chút điền sản nào thì cũng phải bán cầm bán đi hết, đến sau làm ăn dành dụm mởi chuộc dần lại được. Có nhiều mảnh đất của tiền nhân tôi để lại cũng đã vào tay người làng khác, đến mãi đời tôi mới chuộc lại ..."
Ông Phạm Doãn Lự (sinh năm 1885) cũng đã cho biết:
"Làng Lục Thủy ta là một trong ngũ xã toàn tòng trong địa phận Trung Kỳ, nên thời Tự Đức cấm đạo cũng chịu số phận rất bi đát. Ban đầu, lý lịch trong làng phải khai khán dân số rất lôi thôi, ai muốn ra khỏi làng đều phải có giấy, nhưng khó lòng mà xin được phép quan. về sau, mỗi ngày một thêm ngặt nghèo hơn nữa. Quan quân và kẻ ngoại giáo thường tới lục soát làng xóm bất kể đêm ngày. Nếu bắt được người đàn ông con trai nào thì đánh đập không nương tay, rồi để nhịn đói sau đó mới bắt quá khóa. Nhiều người không chịu thì bị chém giết rất dã man. Chẳng những vậy, tài sản của dân làng cũng bị họ cướp bóc, vơ vét hết cả, đến nỗi nồi rau củ chuôi cũng lấy sạch ..."
Sau khi mô tả thảm cảnh này với những lời lẻ tương tự, cha chính Giu-se Phạm Văn Lục (1880-1968) còn cho biết thêm :
"Các quan quân đến làng ta phá phách tất cả nhà thờ và tượng ảnh, còn gia tài điền sản của dân làng thì bị họ tịch thu và đem chia cho các làng bên lương. Có lời lưu truyền rằng, dân xã Thượng Phúc dãtớiquấy nhiễu làng ta hơn cả. Ban đầu họ còn chặt buồng càu nải chuối, đến sau họ nhặt nhạnh mọi thứ, và đào cả gốc tre củ sắn. Bởi thế làng ta đã trở nên nghèo nàn túng kiết, người tan của hết. Và tất cả các chúc thư, tờ bồi văn khế ... thời đó đều bị thiêu đốt đến nay muốn sưu tầm lại cũng không còn một tờ."
Chúng tôi không rõ cha ông chúng ta phải chịu nỗi khổ cực này đến năm nào, hay phải kéo dài mãi tới quân Pháp hạ thành Nam định lần thứ hai (1883) lúc đó quan quân và người ngoại giáo mới thôi Sự tàn phá và bắt bớ dân làng. lẽ sau khi ông báMẹo người Thượng Phúc lấy được bà quả phụ Vũ Quốc Bảo rồi,'thì Lục Thủy từ đó được sự che chở
của ông, nên không bị cướp bóc như trước nữa. Nhưng tới khi đó cũng đã quá chậm, vì hầu hết dân đinh trong làng đã bị bắt bớ, và đời sống đã trở nên quá nghèo túng cùng kiệt rồi.
2.Các đấng tử đạo người Lục Thủy
Chúng ta đều biết, có hai người Lục Thủy đã thực sự đem máu đào ra làm chứng cho đức tin, đó là hai đấng tử đạo Ngôn và Cận. Chúng tôi đã mất rất nhiều thì giờ để tra cứu về những cuộc tử đạo này, nhưng vẫn chưa thấy một tài liệu nào đề cập đến sự hy sinh cao cả của các đấng. Mặc dầu chúng tôi đã biết được một số chi tiết vụn vặt theo truyền ngôn, nhưng vẫn chưa dám viết ra đây, vì xét ra còn quá thiếu sót. Rất mong quý vị, vì vinh quang chung của dàn làng, tích cực giúp đỡ chúng tôi những dữ kiện mà quý vị được biết về cuộc đời của các đâng, để chúng tôi hoàn tất được phần tôn giáo này. Chúng tôi cũng đặt hy vọng đặc biệt nơi các linh mục Phạm Châu Diên, người hồi trước đã từng phục vụ ngay tại Toa Giám mục Bùi Chu và cũng đã lưu tâm đến vấnđề này, cô gắng trợ giúp chúng tôi về đấng tử đạo Ngôn.
Xin cảm ơn quý vị.

3. Những người bị thích tự và đày đi phân sáp
Vào năm 1859-1860 vua Tự Đức truyền cho các làng có đạo, hương lý phải kê khai đầy đủ dân số và điền thổ. Lúc đó, ông Vũ Công Nhiễm đang làm lý trưởng Lục Thủy, không hiểu vì ngay tình hay vì quá sợ hãi, đã kê khai tất cả số dinh trong làng rồi đem nộp quan. Tổng đốc Nam Định thời đó là ông Nguyễn Đình Tân, một người có cảm tình ít nhiều với đạo Công Giáo khi xem tờ khai nàv, đã nổi cơn thịnh nộ quở mắng viên lý trưởng Lục Thúy rằng :
'Bay làm lý trưởng mà lại dại dột đi khai tất cả con dân trong làng như thế này, nếu triều đình ra lệnh giết hết chúng, thì bay còn làm lý trưởng với ai ? Trong tỉnh Nam này có nhiều xã có đạo Gia-tô, nếu các lý trưởng khác cũng khai hết như bay, thì ta đây liệu còn con dân mà cai trị hay không ? Xã Lục Thủy tất cả lớn bé già trẻ đều đi đạo Gia-tô, vậy bay cũng là kẻ có đạo, ta phải ra lệnh chém đầu bay trước đã."
Ông Vũ Công Nhiễm bèn hoảng hồn khiếp vía, van lạy xin tha. Nhưng tương truyền ông bị trảm quyết thời tổng đốc Nguyễn Đình Hưng, và hài cốt ông hiện mai táng ở khu mả tổ trong nghĩa địa làng ta.
Ít lâu sau, Nguyễn Đình Hưng về làm tổng đốc Nam Định thay thế Nguyễn Đình Tân, dường như đã cứ chiếu tờ khai trước của ông VũCông Nhiễm để bắt dân Lục Thúy. Một số người bỏ làng trốn đi nơi khác, số còn lại hầu hết dã bị quan quân bắt thích bốn chữ (Gia-tô tả đạo) vào mặt, rồi đày đi phân sáp.
Số người bị thích tự vào mặt khá đông. Các vi này đã mang dấu đó trên mặt cho tới khi qua đời. Một vài vị còn sống tới thượng tuần thế kỷ XX này, như ông hương trưởng Phạm Khắc Đệ và ông Trịnh Văn Cương.
* * *
Tương truyền trong thời Tự Đức câm đạo, toàn xã Lục Thủy (tức cả hai thôn thượng và hạ) có tới gần một trăm đàn ông thành niên phải bắt đi phân sáp. Không rõ trong số này có bao nhiêu người dân thôn thượng. Cha chính Giu-se Phạm Văn Lục khi kểlạicuộc bách hại này, cũng không xác định được con số mà chỉ trình bày một cách tổng quát như sau :
"Liên tiếp trong ba đời vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, và nhất là Tự Đức, đạo Công Giáo ta bị cấm cách khổ cực mọi đàng. Vua Tự Đức đã không nhận kẻ có đạo là con dân mình nữa, nên đã tìm mọi cách để giết hết đàn ông và con trai lớn trong những làng có đạo, còn đàn bà trẻ con thì bắt sát nhập vào các làng bên lương. Làng ta cũng phải chịu chung số phận đau thương này. Tới khi tha đạo, thì trong làng chỉ còn lại một ít đàn bà con trẻ."
Phần nhiều những người Lục Thuỷ sau khi bị quan quân bắt lên Nam Định, đều bị đày phân sáp ở các huyện Quỳnh Côi, Phục Dực (thuộc Thái Bình hiện nay) và  tỉnh Đông (tức Hải Dương).
Sau khi tha đạo rồi, những người bị bắt phân sáp đều được trở về nguyên quán. Nhưng lúc đó, nhiều người đã bị thân tàn ma dại, ốm đau bệnh tật đến nỗi phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người. Chúng tôi chỉ sưu tầm được danh tính một vài vị đã không may bị chết trong lúc phân sáp, xin kể lại như sau :
- Ông Đa-minh Trịnh Văn Cần. Ông Trịnh Văn Cần lúc đó đang làm trùm họ thì bị bắt. Hồi tháng 10 năm 1859, vua Tự Đức ra sắc dụ mật truyền cho các quan phải lùng bắt cóc các chức dịch trong các họ đạo, vậy có lẽ ông trùm Cần đã bị bắt do sắc dụ này.
Lúc bị bắt, người con trai độc nhất của ông mới lên ba tuổi. Ông bị đầy đi phân sáp ở huyện Quỳnh Côi, thân mẫu ông là bà Trịnh Đình Cản đã theo ông đi phân sáp để giúp đỡ và tiếp tế cho ông. Ông bị mất tại Quỳnh Côi. Đến sau, con cháu đãcải táng đem hài cốt ông về làng ta. Ông là nội tổ của ông Trịnh Văn Tòng, Trịnh Văn Sắc ...
-           Ổng Vũ Văn Xự. Ông Vũ Văn Xụ làm phó mộc, đã bị bắt phân sáp ở huyện Phụ Dực. Sau thời gian bị giam đày, ông đã chết rũ tù. Sau khi tha đạo được ít láu, dân làng đã tưởng thưởng sự ông mạng vong vì đức tin, nên đã đặc biệt lưu tặng cho hiền nội và con cháu ông một bãi sông diện tích chừng hai miếng (72m2) để làm tư điền. Ổng Vũ Văn Xự là ngoại tổ tứ đại của ông Trịnh Xuân Sai.
-  Ông Đa-minh Phạm Văn Kế. Ông Phạm Văn Kế cũng bị bắt vìđạo đời Tự Đức, và phải đày phân sáp bên huyện Quỳnh Côi. Bà Kế đã tận tụy theo giúp đỡ, tiếp tế cho chồng nơi đất lạ quê người. Sau khi bị đầy ít lâu, ông bị trảm quyết hồi năm 37 tuổi. Hài cốt của ông về sau đã được con cháu cải về an táng tại gầm khu mả tổ trong nghĩa địa làng ta. ồng Phạm Văn Kế là nội tổ tứ đại của linh mục Phạm Châu Diên.
-        Ông Đa-minh Trịnh Văn Kim. Ông Trịnh Văn Kim cùng bị phân sáp bên Quỳnh Côi với ông Phạm Văn Kế. Bà Kim cũng đi sáng Quỳnh Côi để giúp đỡ chồng. Ổng Kim đả qua đời  nơi lưu đày trong lúcmới hơn hai mươi tuổi, để lại một người con trai độc nhất. Hài cốt của ông cũng đã được cải táng về nghĩa địa làng ta. Ông Trịnh Văn Kim là nội tổ của bà Trịnh Tiến Thỉnh (tức cả Thỉnh).
* * *
Tục truyền có một vị nọ sau khi bị bắt đi phân sáp, được trở về, ít lâu sau thì mất, con cháu làm ma chay rất linh đình. Trong lúc ngồi đêm, làng xóm vừa uống rượu vừa nghe kèn với những bài bi ai thông thiết. Bỗng một người trong họ cao hứng, gọi trưởng phường kèn lại, bảo nêu thổi được hai câu này thì có thưởng lớn :
"Khi sống thì Phụ Dực, Quỳnh Côi,
Bây giờ ông chết, ngồi ngôi thiên đường."
Phường kèn bèn dùng kèn đại loa, kèn vắt, rồi sau khi lựa hơi, đã thổi dược hai câu này rất lâm ly não nuột, khiến cả quan khách lẫn nhà hiếu đều cảm xúc. Sau đó đã được thưởng rất hậu.

4.Đám ma bên lương

Một trong những biến cố nghịch thường đã xảy ra ở Lục Thủy trong hồi Tự Đức cấm đạo mà ít ai biết đến, đó là một vài đám táng đã cử hành theo nghi thức bên lương. Một trong các đám táng đó, là đám ma bà Trịnh Đình Sách, tục gọi là Cửu Sách.
Bà Trịnh Đình Sách là trưởng nữ ông bà Vũ Thời Hiến, và là thân mẫu ông lang y Trịnh Đình Khảm. Chúng tôi không rõ bà cựu thọ được bao nhiêu tuổi, nhưng vốn gia tư giàu có, nên con cháu đã tổ chức tang lễ cho bà rất trọng thể với dầy đù những nghi thức phiền phức sau đây :
Ngay sau khi bà cựu vừa nhắm mắt nằm xuống,thì con cháu làm lễ chiêu hồn, bằng cách lấy một miếng vải trắng thưa làm bùa, trên đó ghi tên tuổi người quá cố, rồi buộc vào một tàu chuối đã rọc hết lá, và đem đặt bùa đóở đàng trước cửa ra vào.
Tiếp đến là lễ mộc dục, tắm gội cho người chết. Rồi lễ phục hồn : một người lấy chiếc áo của bà, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm chỗ thắt lưng, theo mái trước trèo lên nóc nhà, hú hồn ba lần, xongtheo mái sau trèo xuống.
Trong khi đó, một người khác lấy một dúm gạo nếp và ba đồng tiễn kẽm bỏ vào miệng cho cựu. Dúm gạo để giúp bà lùm lương thực, cồn ba đồng tiền để bà đi đò trong lúc về cõi ám. Đó là lễ phạn hàm.
Rồi thầy pháp được mời tới làm lễ phạt mộc, nghĩa là dùng dao bằng giấy có vẽ bùa để chém vào quan tài hy vọng trừ khử ma quỷ đang rình rập trong những tấm gỗ để lầm hại vong hồn vừa mới chết. Tiếp đến là lễ tiểu liệm và đại liệm : lấy vải bọc xác cho kín, để chọn giờ tốt làm lẽ nhập quan.
Trước khi nhập quan là việc lập minh tinh. Minh tinh là thứ cờ dùng làm biệt hiệu cho ngườichết. Cờ này bằng miếng lụa đỏ, dùng sơn trắng viết tên họ, nhũdanh cùng chức tước của người quá cố, đoạn buộc vào cành tre, đem dựng cạnh linh sàng. Minh tinh còn ghi năm chữ "phu nhân chi linh cữu"
Con cháu bấy giờ mới làm lễ phát tang : bắt đầu khóc lóc và thay tang phục tuỳ theo từng cấp bậc trên dưới trong gia đình. Phát tang xong thì đặt xác vào quan tài rồi khiêng ra giữa nhà. Sau đó thiết lập linh sàng ở gian phía đông nhà, vói đầy đủ giường màn, chăn đệm. Linh sàng chính là chiếc giường dành cho vong hồn người quá cố có nơi tạm nghỉ. Sáng tối con cháu phải làm lễ "chiêu tịch điện" để rước hồn bạch dậy ăn uống  mời hồn bạch đi nghỉ.
Trong những ngày quan tài còn quàn tại nhà, hàng ngày nhà hiếu lại phải cúng tế, và khách khứa đến thăm viếng cũng làm lễ bái. Mỗi khi tế, kèn trống lại nổi lên những bài lâm ly thống thiết, khiến cho đám táng vừa râm ran, vừa thêm cảnh sầu bi não nùng.
Đến ngày phát dẫn, con cháu lại cử hành lễ khiển điện, tức là lê tiễn biệt, rồi di linh cửu đi một chút sang hướng nam, đoạn trưởng tộc phải làm lễ yết tổ để cáo yết tổ tiên, rồi mới đưa đám. Đám táng đã theo đúng thứ tự như sau :
Đi đầu là hai phương tướng, tức là hai thầy chùa đeo mặt nạ, tay cầm dao để khu trục ma quỷ tà thần đang nạt nộ giữa đường. Rồi đến cờ đan triệu làm bằng một vuông vải trắng có hai chữ "trinh thuận". Sau cờ đan triệu là "thế kỳ" là một đoạn vải trắng có bốn chữ "dĩ lĩnh vân mê" (núi Lĩnh mây mờ), giống như tấm biển ngữ, do hai người vác, hai bên có đèn lồng và đèn chứ Á ghi tên tuổi người quá cố.
Sau đó là các nhà sư vừa đi vừa tụng niệm. Kế đến minh tinh đặt trên bàn thờ do bốn người phu khiêng, rồi linh xa để rước hồn bạch.
Tiếp theo là đối trướng của thân bằng quyến thuộc phúng điếu ; rồi hương án trên bày giá hương, độc bình cắm hoa, mâm rượu và mâm ngũ quả. Sau hương án là thực án, cũng là một án thư, trên đặt con lợn quay với xôi gà. Phường kèn đi liền với thực án. Kê đến nhà táng và đại sư rước linh cửu. Ông Trịnh Đình Khảm khi đó mặc quần áo đại tang, thắt lưng giây rơm, mũ mấn, tay chống gậy vông, đi thụt lùi đàng trước linh cửu. Các con cháu khác đi sau linh cửu.
Sau cùng là bà con họ hàng thân tộc và khách khứa.
Trong lúc đi đường, có người rắc vàng thoi để tà thần sợ hãi lảng tránh đi xa, không dám bám vào quan tài quấy nhiễu.
Tới huyệt, các nhà sư làm lễ cúng thổ thần đông tây nam bắc. Rồi một người cao niên trong họ "tế hạ huyệt". Trong lúc dó, hai phương tướng nhảy nhót, múa may quay cuồng xung quanh huyệt để vẽ bùa và yểm chú, sau đó hai phương tướng vội vả chạy ra về, mỗi người theo một đường khác nhau, và không theo con đường lúc đưa đám, vì sợ tà ma mà hai phương tướng xua đuổi ở dọc đường lúc trước sẽ đón đường trả thù.
Khi lấp huyệt xong, một nhà sư lấy hai chiếc "phù phất" áp hai bên nhà táng để cắm lên giữa mộ. Rồi hỏa thiêu nhà táng và minh tinh.
Sau hết, nhà hiếu rước thần chủ lên linh xa về nhà, đặt vào linh tọa, rồi làm lễ "phản khốc" và lề "sơ ngu" để cầu cho vong hồn sớm được siêu thoát.
Tương truyền trong đám ma bà cựu Trịnh Đình Sách này, ông lang Khảm đã đón các nhà sư chùa Thọ Vực về cử hành các nghi lễ và tụng niệm cầu kinh nhiều đêm ngày.
* * *
Chúng tôi không rõ tại sao đám ma bà cựu Sách lại tổ chức theo nghi thức bên lương như thế, mặc dầu ông bà cựu Sách cũng như tổ tiên và con cháu đều là người theo đạo Công Giáo. Được biết trong sắc dụ cấm đạo năm 1857, vua Tự Đức đã bắt các hương lý trong các làng có đạo phải ra lệnh cho dân chúng cử hành các nghi lễ về hôn phối và an táng theo lối bên lương . Phải chăng vì gia đình bà Trịnh Đình Sách là nhà hào phú trong làng, nên bất đắc dĩ con cháu bà phải tổ chức lễ an táng cho bà đúng theo hình thức ngoại giáo để tránh khỏi sự phiền nhiễu cùa quan quân thời đó ? Và như thế đám ma này đã xảy ra sau quãng năm 1857.
Về sau, ông Sên là con nuôi bà cựu Sách kể lại là trong lúc cấm đạo, vì sợ hãi mà ông Trịnh Đình Khảm đã phái cử hành đám ma bên lương cho mẹ mình như vậy. Chúng tôi không rõ thực hư.

5.Chuyện xuất giáo và lập văn từ

Một trong những biến cố quan trọng đã xảy ra ờ Lục Thủy trong hồi nhà Nguyễn cấm đạo mà ngày nay không mấy người biết tới, đó là chuyện xuất giáo và thiết lập văn từ để minh chứng cho sự xuất giáo này.
Vào quãng cuối năm 1857, đầu năm 1858, giữa lúc cơn bách đạo bước sang giai đoạn cực kỳ gay gắt,thì ông bá Mẹo người Thượng Miêu bị mất chức cai tổng tổng Thủy Nhai, và ông Vũ Đức Dị người Lục Thủy lên thay thế. Lịch sử cho biết khi đó người Công Giáo Việt Nam phải chịu nhiều nỗi bất công tủi nhục ; triều đình chẳng những không cho kẻ có đạo được quyền quất(? chấp) chính, mà cũng không cho phép đảm nhiệm bất cứ một chức vụ nào trong làng trong tổng . Trong sắc dụ cấm đạo năm 1857, vua Tự Đức ra lệnh cho các đầu mục trong những làng Công Giáo phải kịp thời lo liệu để đem những người đã theo "Gia-tô tả đạo" về đường ngay nẻo chính, bằng cách ép buộc mọi người phải thờ cúng tổ tiên và các vị thần thánh trong làng.Còn trong sắc dụ cấm đạo ban hành hồi tháng 9 năm 1859, nhà vua đã mật truyền cho các quan phải giam giữ các chức dịch có đạo trong nước, rồi bắt họ .phải quá khóa. Sử gia Ravier đã kể lại : đến tháng Septembre năm ấy vua Tự Đức ra chỉ truyền bắt các đầu mục trong các làng có đạo trong cả và nước, có độ hai nghìn người phải bắt làm vậy, kẻ chẳng chịu quá khóa thì phải phát lưu.
Đứng trước tình trạng nguy hiểm đó, ông cai tổng Vũ Đức Dị đã phải hành động như thế nào ?
Vốn là tay thầy kiện lắm mưu sâu chước lạ, nên lập tức hai con đường đã được vạch ra trong tâm trí ông :
-       Hoặc tỏ mình là người có đạo, thì chắc chắn thế nào cũng mất chức, sau đó sẽ bị bắt dày đi phân sáp theo luật của triều đình. Rồi không chừng sau đó còn có thể bị tử hình nữa là khác.
-       Hoặc tìm cách nào khôn ngoan hơn, vừa để bảo vệ được địa vị và mạng sống mình, lại vừa có th cứu vãn dân làng. Vì một khi chức cai tổng còn trong tay, ông sẽ lợi dụng tư cách đó để can thiệp với quan quân đừng về kiểm soát tàn phá làng Lục Thủy nữa.
trích trong: "Lịch Sử Làng Lục Thủy