Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Phả. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Phả. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2014

Chi Tộc Thánh Phạm viết Ngôn

CHI TỘC THÁNH TỬ ĐẠO LÔRENSÔ PHẠM VIẾT NGÔN

CHI TỘC THÁNH TỬ ĐẠO LÔRENSÔ PHẠM VIẾT NGÔN


Liên Thủy







Thánh Lôrensô Phạm viết Ngôn MS B Tử đạo năm Nhâm Tuất 1862

Sinh hạ



Đời 1



1B1 Phạm văn Hữu

1B2 Phạm văn Hổ

1B3 Phạm văn Trừng



Đời 2



2B1/1 Phạm thị Căn con cụ Hữu

2B1/2 Phạm văn Phẩm

2B1/3 Phạm văn Luật

2B1/4 Phạm thị Tiêu (dưỡng nữ)

2B2/1 Phạm thị Gái ( độc thân ) con cụ Hổ

2B2/2 Phạm thị Tâu ( Châu )

2B2/3 Phạm thị Mẫn

2B2/4 Phạm văn Chuẩn

2B2/5 Phạm văn Tiếu

2B2/6 Phạm thị Sơn tức cố Sơn mẹ cha Cường

2B2/7 Phạm thị Cảnh

2B3/1 Phạm văn Bút con cụ Trừng

2B3/2 Phạm văn Quảng

2B3/3 Phạm văn Khánh

2B3/4 Phạm thị Tạo



Đời 3



3B1/1/1 Phạm văn Phác tức Cước con ô. Căn

3B1/1/2 Phạm thị Toan tức Vâng

3B1/1/3 Phạm văn Thôn

3B2/2/1 Phạm thị Báu con b. Tâu chồng là Phạm văn Đồng

3B2/2/2 Phạm văn Đạm

3B2/3/1 Phạm ngọc Thụy tức Quyên con bà Mẫn

3B2/3/2 Phạm thị Lan

3B2/3/3 Phạm văn Tản

3B2/4/1 Phạm văn Biều con ô. Chuẩn

3B2/4/2 Phạm văn Chuân

3B2/4/3 Phạm văn Chu

3B2/4/4 Phạm thị Trâm

3B2/4/5 Phạm thị Son

3B2/4/6 Phạm thị Cài

3B2/5/1 Phạm văn Bài con ô. Hổ-con cháu xem mã 5A2/1/2/3/1 chi tộc cụ Quỳ

3B2/5/2 Phạm văn Vân tức Chít

3B2/5/3 Phạm thị Huệ

3B2/6/1 Lâm con b. Sơn

3B2/6/2 Hải

3B2/6/3 Phạm chí Cường Linh Mục ở Tam Hiệp Biên Hòa

3B2/7/1 Nguyễn xuân Rần con b. Cảnh

3B2/7/2 Nguyễn xuân Quí

3B3/1/1 Phạm văn Chỉ tức Đốc con cụ Bút

3B3/1/2 Phạm thị Rơi chồng là Phạm bút Mỹ xem mã 5A 2/1/2/1/3 Chi Tộc cụ Quỳ

3B3/1/3 Phạm thị Nhặt

3B3/1/4 Phạm thị Ngặt chồng Đinh viết Hà

3B3/1/5 Phạm văn Sách

3B3/1/6 Phạm thị Phức chồng là Quật ( con ô. Trắc )

3B3/1/7 Phạm thị Phượng chồng là Vinh con ô Trùm Dư xem Mã số 4A2/1/2/1

3B3/1/8 Phạm văn Bạ

3B3/2/1 Phạm văn Sắc con ô Quảng

3B3/2/2 Phạm văn Sở không con

3B3/2/3 Phạm văn Tuy

3B3/2/4 Phạm thị Ca tu sĩ

3B3/3/1 Phạm văn Phấn con ô. Khánh

3B3/3/2 Phạm thị Lim

3B3/3/3 Phạm thị Ngọt

3B3/4/1 Phạm văn Nhỉ con b. Tạo

3B3/4/2 Phạm văn Nhiểu

3B3/4/3 Phạm thị Sáng

3B3/4/4 Phạm thị Soi





Đời 4



4B1/1/1/1 Phạm văn Pháp con ô. Phác

4B1/1/1/2 Phạm thị Nguyệt

4B1/1/2/1 Phạm thị Hoài tức Phin con b. Toan

4b1/1/2/2 Phạm thị Ba

4B1/1/2/3 Phạm thị Ty

4B1/1/2/4 Phạm văn Ngói

4B1/1/2/5 Phạm thị Tin

4B1/1/2/6 Phạm thị Bưởi

4B1/1/2/7 Phạm thị Cúc

4B2/4/1/1 Phạm văn Bao con ô. Biều

4B2/4/1/2 Phạm văn Bảo

4B2/4/1/3 Phạm thị Cúc chồng là Vị con ô Phó Vịnh

4B2/4/1/4 Phạm thị Ngợi

4B3/1/1/1 Phạm thị Cúc con ô.Đốc

4B3/1/1/2 Phạm mạnh Chi

4B3/1/1/3 Phạm nam Dược

4B3/1/3/1 Phạm văn Vinh tức Ty con b.Nhặt và ô.Thái hay Thới

4B3/1/3/2 Phạm văn Long

4B3/1/4/1 Đinh viết Hòa con b. Ngặt và ô.Hành

4B3/1/4/2 Đinh thị Nga

4B3/1/4/3 Đinh thị Ngát

4B3/1/4/4 Đinh thị Đạo

4B3/1/6/1 Phạm thị Thơm con b. Phức vào ô.Quật chồng là Ánh con ô.Nghiệp(xem mã 6 A 2/1/1/1/2/2

4B3/1/6/2 Phạm thị Ngọt con b.Phức và ô. Quật

4B3/1/6/3 Phạm thị Mát (c)

4B3/1/8/1 Phạm văn Lượng con ô. Bạ

4B3/1/8/2 Phạm văn Hải

4B3/1/8/3 Phạm văn Như

4B3/1/8/4 Phạm thị Nụ

4B3/1/8/5 Phạm thị Nữ

4B3/1/8/6 Phạm thị Nhi

4B3/2/1/1 Phạm văn Bằng con ô. Sắc

4B3/2/1/2 Phạm văn Bính

4B3/2/1/3 Phạm thị Qui

4B3/2/3/1 Phạm văn Ký con ô Tuy và bà Cậy

4B3/2/3/2 Phạm văn Công

4B3/2/3/3 Phạm thị Mến

4B3/2/3/4 Phạm văn Lập

4B3/2/3/5 Phạm văn Bao

4B3/2/3/6 Phạm thị Yêu



Đời 5



5B3/1/1/1/1 Phạm hiến Thành con b.Cúc và ô Vị

5B3/1/1/1/2 Phạm hiến Thanh

5B3/1/1/1/3 Phạm thị Rum

5B3/1/1/1/4 Phạm thị Thu

5B3/1/1/1/5 Phạm thị Lý con b. Cúc và ô Vị chồng là Thân Sa Châu

5B3/1/1/1/6 Phạm thị Hồng

5B3/1/1/1/7 Phạm văn Toán

5B3/1/1/2/1 Phạm thị Tin con ô Chi và b. Mật (con ô. Cố Đoan cùng làng)

5B3/1/1/2/2 Phạm văn Huynh

5B3/1/1/2/3 Phạm văn Chấn

5B3/1/1/2/4 Phạm thị Mến hay Nên?

5B3/1/1/2/5 Phạm văn Chương

5B3/1/1/2/6 Phạm văn Chiểu

5B3/1/1/2/7 Phạm văn Huy

5B3/1/1/3/1 Phạm hồng Thiều con ô Dược và b.Ren

5B3/1/1/3/2 Phạm ánh Quang

5B3/1/1/3/3 Phạm xuân Dụ

5B3/1/1/3/4 Phạm hữu Ích

5B3/1/1/3/5 Phạm bình Yêm

5B3/1/1/3/6 Phạm thị Thúy Mẫu

5B3/1/3/1/1 Phạm thị Kim Dung con ô Vinh

5B3/1/3/1/2 Phạm thị Bích Thủy

5B3/1/3/1/3 Phạm thị Hiển

5B3/1/3/1/4 Phạm thị Thùy Vân

5B3/1/3/1/5 Phạm thị Cẩm Tú

5B3/1/3/2/1 Phạm văn Quang con ô.Long

5B3/1/3/2/2 Phạm quang Thắng

5B3/1/6/2/1 Trần công Dũng con b. Ngọt và ô. Tảo

5B3/1/6/2/2 Trần ngọc Tuấn

5B3/1/6/2/3 Trần thị Bạch Tuyết

5B3/1/6/2/4 Trần Kim Chung

5B3/1/6/2/5 Trần thanh Nga



Đời 6



6B3/1/1/1/1/1 Phạm văn Thức con ô. Vị và b. Cúc

6B3/1/1/1/1/2 Phạm thị Thơi

6B3/1/1/1/1/3 Phạm thị Dệt

6B3/1/1/1/1/4 Phạm thị The

6B3/1/1/1/1/5 Phạm văn Thao

6B3/1/1/1/1/6 Phạm văn Thế

6B3/1/1/1/1/7 Phạm thị Thơm

6B3/1/1/1/2/1 Phạm thị Phương con ô Thanh và b. Nến

6B3/1/1/1/2/2 Phạm thị Hoài

6B3/1/1/1/2/3 Phạm thị Nga

6B3/1/1/1/2/4 Phạm văn Tuyết

6B3/1/1/1/3/1 Đinh thị Na con b. Rum và ô.Tưởng Phú Thọ

6B3/1/1/1/3/2 Đinh văn Hiệt

6B3/1/1/1/3/3 Đinh thị Liên

6B3/1/1/1/3/4 Đinh thị Nụ

6B3/1/1/1/4/1 Phạm thị Loan con b.Thu và ô Huỳnh

6B3/1/1/1/4/2 Phạm văn Đỉnh

6B3/1/1/1/4/3 Phạm văn Đình

6B3/1/1/1/5/1 Phan văn Tiến con b. Lý và ô Thân

6B3/1/1/1/5/2 Phan văn Mạnh

6B3/1/1/1/5/3 Phan văn Thắng

6B3/1/1/1/5/4 Phan thị Chắt

6B3/1/1/1/5/5 Phan thị Liễu

6B3/1/1/1/6/1 Đinh văn Đông con b.Hồng và ô Diêu Lạc Nghiệp

6B3/1/1/1/6/2 Đinh văn Nam

6B3/1/1/1/6/3 Đinh văn Bắc

6B3/1/1/1/6/4 Đinh thị Hương

6B3/1/1/1/6/5 Đinh thị Lan

6B3/1/1/2/1/1 Đinh văn Ninh con b. Tin và ô.Hinh Hoành Tam

6B3/1/1/2/1/2 Đinh văn Lâm

6B3/1/1/2/1/3 Đinh thị Niên

6B3/1/1/2/1/4 Đinh văn Lung

6B3/1/1/2/2/1 Phạm văn Hiến con ô. Huynh và b. Chiến

6B3/1/1/2/2/2 Phạm thị Yến

6B3/1/1/2/2/3 Phạm văn Huân

6B3/1/1/2/3/1 Phạm thị Chung con ô Chấn và b. Thủy(gốc Sa Châu)

6B3/1/1/2/4/1 Đinh văn Điện con b.Nên hay Mến và ô.Đích Hoành Tam

6B3/1/1/2/4/2 Đinh văn Đà

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

GIA PHẢ-NGUỒN CẢM XÚC DẠT DÀO VỀ ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN

GIA PHẢ - NGUỒN CẢM XÚC DẠT DÀO VỀ ĐẠO LÝ UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN




Mai Xuân Hải*

Hai tiếng “Gia phả” đối với người Việt Nam ta xưa nay thật vô cùng thiêng liêng. Bởi gia phả chính là bộ sử sống của gia đình, của dòng họ, mà ở đó tổ tiên, ông bà các đời của chúng ta, nhữngliên tục truyền nối từ thuở vô thủy tới nay đã mang đến cho ta mạng sống, cho ta được làm người đã hiện lên rõ rệt...


Xưa kia, bất kể dòng họ lớn nhỏ nào cũng thường có gia phả. Dòng họ nhỏ đôi khi chỉ vào mươi trang ghi chép vắn tắt họ, tên, ngày giỗ, phần mộ của các cụ. Dòng họ lớn thì gia phả viết rất quy củ, có phép tắc, có đủ lời tựa, lời dẫn, phàm lệ, đủ cả phần chính phả, ngoại phả. Ngoài việc ghi chép họ tên, thụy hiệu, ngày sinh ngày mất, phần mộ, chức tước, hành trạng, công lao lúc sống của các cụ, gia phả còn ghi chép cả thơ văn, bi ký, hoành phi, câu đối, văn khấn, nghi thức cúng giỗ, điều lệ dòng họ, về việc xây dựng từ đường, ruộng họ, cùng các đạo sắc phong, chế cáo ban tặng của nhà vua. Phần nhiều là gia phả viết tay, đôi khi những dòng họ có điều kiện kinh tế và có ý thức cao, gia phả còn được khắc in.


Nhưng dù dài ngắn mặc lòng, gia phả vẫn là những bộ sử riêng của gia đình, dòng họ viết về những bậc tiền bối với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “phục bản phản thủy”, “thận chung truy viễn”, nên nó thường tràn đầy một tình cảm thiêng liêng, một trách nhiệm, một bổn phận cao cả đối với các lớp tiền bối và cả các lớp con cháu sau này, một thái độ thành kính, biết ơn công lao sinh thành, gây dựng, vun đắp của tổ tiên, nên có sức lôi cuốn, có sức cảm hóa mạnh mẽ các lớp cháu con.


Đọc gia phả chúng ta sẽ thu hoạch được rất nhiều tri thức bổ ích. Chúng ta sẽ hiểu sâu hơn về các mặt sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán, những sự kiện lịch sử mà nhiều khi không được ghi chép trong chính sử của triều đình. Rồi còn văn chương, thơ phú, triết lý... Quả thật có những cuốn giả thực sự có tính chất “bách khoa toàn thư” về dòng họ, về xã hội quá khứ. Nhưng trong bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào khía cạnh nhận thức của gia phả, chúng tôi chỉ xin trích dịch một vài đoạn văn, một vài mẩu chuyện trong một số cuốn gia phả, nói lên những suy nghĩ và đạo đức, đạo lý làm người của ông cha, thân thiết gần gũi với chúng ta, mà ngày nay, những nét đẹp đạo đức ấy, đã từ lâu được người Việt Nam ta chấp nhận, trở thành đạo đức truyền thống, tâm linh dân tộc, rất giàu cảm xúc uống nước nhớ nguồn, được các gia đình của mọi dòng họ Việt Nam vẫn thường dạy dỗ con cháu, đặng góp vào việc đánh thức những cảm xúc hướng thiện trong chúng ta trong cuộc hành trình trở về cội nguồn đang diễn ra sôi nổi hôm nay.


Trước hết, chúng ta hãy bắt đầu từ những trang của lời tựa, mà ở đây chúng ta thường bắt gặp những suy nghĩ dung dị về đạo đức làm con, đạo làm người, về mục đích của việc biên soạn gia phả.


Bài tựa gia phả họ Tăng ở thôn Nghiêm Thắng, huyện Đô Lương, Nghệ An viết: “Cây có nghìn cành vạn lá là nhờ có gốc. Nước có nghìn suối vạn dòng là nhờ có nguồn. Con người ta họ hàng con cháu đông đảo, ai mà không bắt nguồn từ tổ tiên?”.


Bài tựa gia phả họ Nguyễn Nhân ở làng Xuân Dương, huyện Thanh Chương, Nghệ An viết: “Có người hỏi tôi viết gia phả để làm gì? Tôi đáp: Đạo Càn thành nam, đạo Khôn thành nữ, con người nhờ đó được sinh ra. Vì thế con người ta sinh ra phải kính trọng cha mẹ, tôn kính tổ tông. Lúc bắt đầu là từ một gốc, sau chia ra nhiều nhánh, rồi nối tiếp nghìn vạn con cháu. Bởi lẽ đó, nếu không chép phả thì con cháu các đời sau làm sao mà biết được?”.


Bài tựa gia phả họ Đỗ thôn Đại Định, xã Cao Đài huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phú viết: “Phép làm gia phả là chi chép nguồn gốc tổ tông, như cành có gốc, như nước có nguồn, có vật nào mà lại không như vậy? Làm con cháu nếu không biết họ hàng tông tộc bắt nguồn từ đâu, khi đối đáp với người ngoài thì dụng dạ rỗng tuếch, chẳng biết nói gì, hoặc nói về tổ tiên thì ú ớ cái lưỡi. Kế thừa máu thịt của ông cha mà như thế, phỏng có hổ thẹn không?”.


Bài tựa gia phả họ Mai ở Phương Liệt viết: “Kính nghĩ các cụ tổ tiên ta phúc đức đầy đặn, ăn ở hiếu hạnh. Cụ thủy tổ ta sinh ra ở đất Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), nảy nở điềm lành ở vùng sông Nhĩ (sông Hồng). Trải qua các đời thứ hai, thứ ba, thứ tưu, thứ năm nối nhau kế thừa, có người văn học tiếng tăm, có người đạo đức ngời sáng. Được như vậy là do tổ tiên gây dựng từ lâu đời. Làm con cháu mà không biết ăn ở đầy đặn, không biết báo đáp công ơn tổ tiên thì còn ra quái gì nữa! Kinh Thi nói: “Tưởng nhớ tổ tiên, tu dưỡng đạo đức, một niềm tu dưỡng, giữ lấy nếp nhà” làm cho sự nghiệp của tiền nhân được vẻ vang, làm gì có con đường nào khác nữa đâu. Những người khéo đọc gia phả hãy nên suy ngẫm về điều đó...”.


Ngày nay chúng ta đọc bất cứ bài tựa nào của bất cứ một cuốn gia phả nào của người Việt Nam chúng ta, chúng ta đều được đọc những dòng chữ, những suy nghĩ về ông bà tổ tiên thành kính, trân trọng như thế.


Đấy là ở bài tựa. Còn về nội dung thì sao? Trong rất nhiều cuốn gia phả ngoài phần chép tên tuổi, ngày giỗ, phần mộ, còn có những dòng miêu tả hành trạng, tính cách, điều ăn nết ở rất sống động, đọc lên, chúng ta có cảm giác như các cụ “canh tường như tại”, đang sống cùng cháu con, đang dạy dỗ cháu con, chính bằng cuộc sống của mình.


Gia phả họ Bùi xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Đông (nay là Hà Tây) viết về cụ tổ đời thứ 10 là cụ Ôn Mục Đoan Khiết công như sau: “Tính cụ nghiêm thẳng, trị nhà cần kiệm có phép, thờ phụng cha mẹ rất hiếu thảo, giữ mình kính cẩn, đãi người chân thành, đối với hàng xóm thì hòa mục lễ nghĩa, tương thân tương ái, không ai chê trách gì được...”. Khi viết về cụ bà, gia phả chép càng cảm động hơn: “... Cụ bà hiệu là Từ Tường nhụ nhân, tính nết cần kiệm tần tảo, rất mực thương yêu chồng con. Thuở còn hàn vi, mỗi khi đi chợ về, cụ đều giành ra vài đồng tiền kẽm để mua giấy bút cho con đi học. Cụ Khắc Trai công chăm chỉ học hành, ngày sau thành đạt, phần nhiều là nhờ công lao dậy dỗ của cụ vậy. Sau này cụ Khắc Trai công làm quan ở viện Hàn lâm, thường xót xa về nỗi mẹ già đã qua đời, không được phụng dưỡng. Đến ngày giỗ mẹ, cụ xúc động làm một bài thơ rằng:

“Quan cao nơi viện Hàn lâm,
Cảm thương nhớ mẹ, ướt đầm lệ sa.
Giờ đây tuổi hạc đã già,
Ba mươi năm trước, xót xa nhớ người.
Công danh vinh hiển ở đời,
Cũng là ơn mẹ, khôn nguôi báo đền..
Ấy nhờ phúc ấm tổ tiên,
Quế lan tươi tốt, vững bền dài xa..”

Gia phả họ Lê ỡ xã Phù Xá, huyện Kim Hoa, phù Đa Phúc, tỉnh Bắc Ninh, là một vọng tộc lớn ở Bắc Ninh xưa, gia phả viết rất kỹ càng đầy đủ. Đặc biệt những dòng viết về công tích đạo đức của tiền nhân đọc lên rất xúc động. Như đoạn viết về cụ tổ đời thứ 8 rằng: “... Khi cụ làm xã trưởng, cụ xử sự công bằng, được dân xã tin yêu... Vả lại, bấy giờ gặp lúc lắm gian nan, dân tình đói kém, phàm gặp người nào có tai ách, cụ đều rủ lòng chu cấp, mọi người đều được hưởng ơn trạch. Sau khi cụ mất, hai xã tưởng nhớ công đức, đều xin được thờ cụ ở trong đình... Kìa như họ nhà ta đối với dân chúng hai xã Đông Đoài có ơn trạch rất lớn, là bắt đầu từ cụ tằng tổ Nghiêm Quang hầu vậy. Cụ tổ ta nối theo, xây dựng nhà tế đường, sửa sang hương lệ, sắp đặt kỷ cương, đời đời tuân theo, cũng là một việc làm to tát cho dân. Nghìn năm hương hỏa vẫn còn trường tồn nơi miếu xã, mà nhà ta nối đời hưng thịnh. Đó thực là nhờ các cụ liệt tổ nhà ta để lại ơn trạch đến vô cùng vậy”.


Cũng trong cuốn gia phả họ Lê ở Phù Xá này, đọc đến đoạn văn bia, đọc bài minh họa sau đây, con cháu nào mà không tự hào chính đáng về tiên tổ: “Kìa như cụ chỉ là người ở nơi thôn dã cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ vất vả gian nan, mà sừng sững hơn hẳn bọn lưu tục, ưa văn học, thích bố thí, lấy đạo làm việc thiện để lại cho con cháu, làm vinh hiển cho gia tộc, xóm làng. Khi mất lại được vua ban cáo mệnh phong tặng, vẻ vang cả nơi chín suối. Hai xã Đông Đoài chịu ơn và tưởng nhớ công đức cụ, đã phối thờ cụ ở trong đình, để mọi người tới đó kỷ niệm cụ không bao giờ mất vậy.


Khám thờ bốn thước, khu mộ tốt tươi, dựng tấm bia to, khắc sâu công đức.


Có bài minh ca ngợi rằng:

“Núi Sóc Sơn cao vút,
Sông Nguyệt Bảo trong xanh.
Nhà họ Lê ta ấy
Hàm chứa bao tinh anh.
Cụ đội ơn tiên tổ,
Gia sản giầu thêm nhanh.
Một đời làm việc thiện,
Con nối nghiệp cha anh.
Mọc lên cây ngọc quý,
Được triều đình tôn vinh.
Hiển hách tên tuổi ấy.
Còn mãi với trời xanh.
Bia đá này ghi khắc,
Không mờ mòn đức âm.
Núi Thái Sơn sừng sững,
Ngưỡng mộ mãi ngàn năm”.

Gia phả (bản khắc in) họ Đỗ ở làng Chương Dương, huyện Thường Tín tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây), những tấm gương sáng ngời về đạo đức của các cụ còn được viết xen kẽ thành những mẩu chuyện nho nhỏ, rất giầu ý nghĩa giáo dục và giá trị văn chương, đọc lên con cháu nhớ mãi. Xin nêu ra đây vài truyện.


1. Truyện nhường ao của cụ Đoan Lương


Cụ tổ đời thứ 6 là cụ Đoan Lương (húy Tông) thi đỗ Tam trường khoa thi Hương năm Quý Mão (1723) niên hiệu Bảo Thái thứ 4, làm quan Đồng tri châu châu Lộc Bình, xứ Lạng Sơn. Khi về hưu, cụ giữ chức văn trưởng hội Tư văn ở làng. Cụ có mua một cái ao, phía đông giáp chân đê, phía tây và nam liền với cái ao của ông Trung úy Lượng, phía bắc giáp đường xóm Thượng Phúc. Nguyên phía trước nhà ông Lượng có bốn cái ao liền bờ, vuông hình chữ điền, cụ mua một cái, ông Lượng mua ba cái. Ý ông Lượng muốn mua nốt cái ao của cụ, phá bỏ bờ thành một cái ao to để thả cá và trồng sen trước cửa nhà cho đẹp. Ông Lượng có lần hỏi mua, nhưng cụ không bán, nên ông Lượng để bụng thù.


Nhân ngày cuối năm, cụ cho người lên dọn ao, cắt cỏ xung quanh bờ cao và đánh cá ăn tết. Thấy vậy ông Lượng vu cho cụ là đẽo vạc chân đê, mở rộng ao, định làm đơn thưa kiện. Có người mách với cụ, cụ bèn gọi các con đến bảo rằng: “Việc dọn ao, cắt cỏ, đánh cá là việc nhà ta làm hàng năm. Nay ông Lượng muốn mua cái ao của ta không được, bèn vu ra chuyện đẽo vạc chân đê để đi thưa kiện. Gặp được quan thanh liêm thì chẳng nói làm gì. Nhưng thời buổi kim tiền này, quan thấy kiện như kiến thấy mỡ, nén bạc đâm bạc tờ giấy. Vả lại, quan bênh quan, đồng tiền trên lẽ phải, ta dù có lý đến mấy cũng thua. Cổ nhân có câu: “Thua kiện mười bốn quan năm, được kiện mười lăm quan chẵn”, mà đã gây sự kiện cáo, hẳn sinh oán thù, một đời kiện ba đời thù, như thế phỏng có ích gì?”. Sau đó cụ bèn chủ động đến nhà ông Lượng, bảo với ông Lượng rằng: “Ông muốn mua cái ao của tôi, phá bờ thành cái ao to trước nhà, trồng sen thả cá cho đẹp thì tôi nhượng lại cho, việc gì phải thưa với kiện”. Rồi cụ đưa văn tự ao cho ông Lượng.


Về sau, sau khi ông Lượng chết, con cháu ông Lượng không chịu làm ăn, ham mê rượu chè cờ bạc, lại đem chiếc ao to ấy bán cho cháu cụ là cụ Ôn Văn đời thứ 8.


2. Sự tích ngôi mộ cụ Ôn Văn


Ngôi mộ cụ Đỗ Đình Đại (hiệu Ôn Văn) đời thứ 8 để ở gò con Nhạn, xứ đồng Mật, làng Bạch Mai, tổng Kim Liên, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội.


Năm Tân Mão (1831) cụ Đỗ Danh Tuấn 15 tuổi lên trọ ở làng Bạch Mai để lên Hà Nội học. Ở chỗ cổng làng Bạch Mai có bà bán nước chè tươi và quà bánh cho khách bộ hành qua lại. Như thường lệ, sáng nào cụ cũng ra đấy uống bát nước chè tươi nóng hổi, hút điếu thuốc lào, rồi mới đi lên Hà Nội học.


Một hôm cụ ra quán nước đã thấy một ông lão, áo quần rách rưới lôi thôi, râu tóc bạc phơ ngồi ở trong quán. Cụ vào uống nước xong, cầm lấy cái điếu, thông bã vê thuốc, châm đóm định hút. Vừa lúc ấy ông lão giằng điếu tranh hút. Cụ vui vẻ châm lửa nhường ông lão hút trước, còn mình thông bã hút sau, sắc mặt không có tí gì là bực tức. Cách hai hôm sau, ông lão lại tranh hút như trước, nhưng cụ vẫn một niềm kính cẩn, sắc mặt không hề bực tức. Cách ba ngày sau, ông lão vẫn tranh hút như hai lần trước, cụ vẫn một niềm vui vẻ mời ông lão hút trước. Khi ông cụ đi khỏi, ông lão hỏi bà hàng rằng cậu học trò này quê quán ở đâu bà có biết không? Bà hàng bảo, tôi nghe nói cậu ở dưới phủ Thường Tín lên đây trọ học. Ông thân sinh cậu là Tri huyện, Tri phủ gì đấy. Ông lão bảo: Con nhà gia thế có khác, có phúc mới có người con như thế.


Một hôm cậu đi học về, gặp ông lão ở Cầu Dền, ông lão gọi lại và bảo cho cậu biết, rằng lão chính là thảy Địa lí đi để đất cho thiên hạ, thấy đây có ngôi đất đẹp, lão thử xem nhà nào có đức thì sẽ để cho. Lão đã thử nhiều người, chẳng ai vừa ý. Nay thấy cậu khiêm nhường, lễ nghĩa, trọng người cao tuổi, lão để ngôi đất ấy cho. Cậu về thưa với quan nhà, lên mua thửa ruộng ấy. Nhớ đến ngày 16 tháng chạp, sớm tinh sương, có đủ mặt ở đấy, lão đến cắm hương cho. Nhớ mua thêm mươi thúng gạch vụn, cát, vôi bột, để lúc lấp huyệt cần dùng đến...


Đúng hẹn sáng sớm tinh mơ ngày 16 tháng chạp, ông lão đã có mặt, cắm đất đào huyệt, đặt quan tài, phân kim ngắm hướng xong, cho lấp đất. Lúc lấp đâts còn cách mặt ruộng ba gang tay, ông lão bảo trộn đều gạch, cát, vôi bột đổ xuống dầy một gang, tưới nước nện chặt (đó gọi là đất tam hợp, sau này cho con cháu dễ nhận), sau đó đắp đất lên như ngôi mộ khác. Ông lão còn bảo, nếu muốn xây phải đợi ngoài 100 năm mới xây và đặt mộ chí được. Khi cụ Trường Ấn (bố cụ Tuấn) đưa biếu lễ vật và tiền, ông lão không nhận, chỉ lấy 1 phẩm oản, 1 quả chuối mà thôi.


Tính đến năm an táng cụ là năm Tân Mão (1831) đến năm Bính Tý (1936) cháu đời thứ 12 là cụ Đỗ Danh Doãn (hiệu Tế Xuyên) xây mộ cụ vừa đúng 105 năm, đúng như thày địa lý nói. Nếu không có đất tam hợp thì năm Canh Tý (1900) bọn thù nghịch đã đào mất mộ rồi. Thực là công việc ở đời đều bởi ông Tạo hóa định liệu trước cả, người đời chỉ biết làm theo, đến đâu biết đấy. Cứ chịu khó làm lụng, thực thà hiền lành, ắt được hưởng lộc trời cho, chỉ có sớm muộn mà thôi.

3. Truyện đào trộm ngôi mội cụ Ôn Văn ở Bạch Mai

Ngôi mộ cụ Ôn Văn an táng ở gò con Nhạn, xứu Đồng Mật, làng Bạch Mai, huyện Thọ Xương, sau là huyện Hoàn Long, Hà Nội. Năm Canh Tý (1900) ở Chương Dương có kẻ thù nghịch cho người lên đào trộm, nhưng không được. Chuyện rằng:


Tối 30 tháng Chạp năm Canh Tý (1900) trời tối như mực, lại mưa phùn gió bấc, đêm tĩnh mịch vắng vẻ. Ở cổng làng Bạch Mai có cái điếm canh, cách ngôi mộ cụ Ôn Văn chừng 100m. Trong điếm có 7, 8 người tuần phiên canh gác. Họ chung nhau mua mấy con cá rán, ít xôi, chai rượu để đến lúc giao thừa cùng nhau nâng chén mừng xuân. Chính trong lúc mấy anh em trương tuần quây quân đánh bạc làm vui, thì ngoài mộ bọn thù nghịch đang đào trộm ngôi mộ cụ. Đúng lúc ấy, chợt có con mèo ở đâu đến tha mất con cá rán, bọn tuần vội đứng lên đuổi bắt mèo. Nhưng trời tối, họ chẳng biết mèo chạy đằng nào, chỉ hô hoán lên: “Nó kia, nó kia, bắt lấy nó!” Mấy tên đào trộm mộ nghe tiếng hô hoán, tưởng lộ chuyện, vội bỏ về thẳng. Sáng hôm sau, anh em đi tuần qua đấy mới biết ngôi mộ đêm qua bị đào trộm, đất cát đang còn bừa bãi. Cụ Diên, người chủ thửa ruộng và trông nom ngôi mộ, vội cho người xuống báo ngay cho cụ Xuân Trạch biết. Cụ Xuân Trạch liền lên làm lễ điền hoàn và đắp lại ngôi mộ như cũ.


Cụ Diên thường nói: “Từ ngày tôi trông nom ngôi mộ, tôi ăn nên làm ra, con cái học hành thành đạt, nên trông nom rất cẩn thận”. Việc đào trộm mộ ở Bạch Mai có nhiều người biết. Họ bảo nhau rằng: “Đó là quan Thổ thần hóa làm mèo vào tha cá để báo cho anh em tuần phu biết, chứ có phải mèo thật đâu, vì số cá rán chẳng mất con nào cả”. Về sau chuyện mới rõ ràng, có ông Bát Hanh, người làng Chương Dương đi lính cho Pháp, được ban hàm bát phẩm, bị cụ Xuân Trạch giật mất chức Tiên chỉ, nên để tâm báo thù, cho người lên đào trộm mộ.


Sau này con trai ông Bát hanh nghèo túng, phải quay về nhờ vả cụ Danh Doãn, là cháu đời thứ 12. Thế mới biết cổ nhân nói: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” chẳng sai tí nào.

4. Truyện vứt thuốc phiện vào thùng phân


Cụ tổ đời thứ 9 họ Đỗ ở Chương Dương là cụ Ôn Cung, thụy là Đoan Lượng. Cụ đỗ Cử nhân năm Ất Dậu (1825) lúc 29 tuổi, sau làm quan Tri huyện Lang Tài, thăng Tri phủ Quốc Oai, rồi giữ chức Lễ khoa Cấp sự trung. Thời kỳ cụ làm việc ở Khoa đạo 7 năm, hai lần đi thanh tra ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, lúc về chỉ có mấy gói thuốc Bắc, có quan Bố chính Bình Định là Phan đại nhân, người làng Phù Ủng, Hải Dương là người nghiện thuốc phiện, có tặng cụ hai lọ thuốc phiện, chừng độ 30 lạng. Cụ miễn cưỡng phải nhận để yên lòng người cùng xứ, làm quan nơi xa gặp nhau. Cụ xử sự cận với nhân tình như vậy đấy.


Về nhà cụ nói dối cụ bà rằng, đó là hai lọ thuốc cao, khi nào cụ bảo mở thì mới được mở.


Một hôm cụ bà đi vắng, cụ đem hai lọ thuốc phiện đó vứt vò thùng phân. Cụ bà về biết chuyện, có phàn nàn rằng: “Hai lọ thuốc đắt tiền, giá đến hơn 300 quan, sao không bán đi chẳng được món tiền to hay sao. Tiếc quá! tiếc quá!”. Cụ bảo: “Thuốc ấy là vật giết người, làm tan nát cửa nhà, mình đã không dùng, sao nỡ tham lợi bán cho kẻ khác kiếm vài trăm quan tiền thì yên tâm sao đánh!”. Kể từ khi cụ được bổ nhiệm chức Hữu kinh lịch tỉnh Quảng Trị, đến Giám sát ngự sử đạo Thanh Hóa, hơn 15 năm, dân gian có việc thưa kiện, trước cụ lấy điều nghĩa lý hòa giải, sau mới lấy luật phát phân xử nhanh chóng, không để đọng án, kéo dài dây dưa, tốn phí thời gian đi lại, phiền nhiễu cho dân.


Đấy, gia phả viết về ông cha như thế, con cháu muôn đời sau đọc đến, ai mà không cảm động, ai mà không tự hào. Những tấm gương sáng như thế, con cháu nào mà không noi theo. Trong ngôn ngữ ta có từ “bách tính”, nghĩa là trăm họ, đồng nghĩa với từ “quốc gia”, “dân tộc”, “đất nước”. Nhiều nhà họp thành họ, nhiều họ họp thành làng, nhiều làng họp thành nước. Mọi nhà, mọi họ làm việc thiện tất sẽ có nhiều phúc khánh. Cả nước làm việc thiện, nước tất sẽ hưng vượng.


Bài viết nhỏ này chỉ xin trích dịch một số đoạn, dăm ba truyện dồi dào cảm xúc về đạo lý uống nước nhớ nguồn mà trong bất cứ một cuốn gia phả của dòng họ nào cũng đều có thể tìm thấy, những mong tiếp thêm một chút ít sức mạnh tinh thần truyền thống cho chúng ta trên con đường chấn hưng dân tộc Việt Nam ta hôm nay.

Chú thích:

1. Canh tường: theo sách Hậu Hán thư - Lý Cố truyện: “Sau khi vua Nghiêu chết, vua Thuấn tưởng nhớ suốt 3 năm, khi ngồi như thấy bóng vua Nghiêu ở trên tường, khi ăn như thấy bóng vua Nghiêu ở trong bát canh. Sau đó, từ này được dùng như một động từ, chỉ sự tưởng nhớ không quên.


2. Cảm ơn bạn Đỗ Diễn Hịch đã cung cấp một số tư liệu về dòng họ Đỗ ở Chương Dương, Thường Tín, Hà Tây.

*Tác giả Mai Xuân Hải (1944 - 2011) - sinh thời là cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

Gia Phả Họ Phạm do Ô.Phạm diễm Phước Chắt nội Ông Phạm văn Rư Post

Tôi xin mạn phép sao Trang này từ Giaphavietnam của Anhdung có lẽ là chắt của cụ Lý Binh( anh cả của cụ Phạm văn Vinh)để quí vị đối chiếu.

Gia phả thánh laurenso Ngôn ,Phả hệ, phả đồ


1.1 CAO TỔ LIÊN THỦY-NAM ĐỊNH


2.1 chi tộc PHẠM VIẾT NGÔN-Mađalêna Ngôn


3.1 PHẠM VĂN HỮU


4.1 PHẠM THỊ CĂN


5.1 PHẠM VĂN PHÁC


5.2 PHẠM THỊ TOAN


5.3 PHẠM VĂN THÔN


4.2 PHẠM VĂN PHẨM


4.3 PHẠM VĂN LUẬT


4.4 PHẠM THỊ TIÊU (dưỡng tử)


3.2 PHẠM VĂN TRỪNG


4.1 PHẠM VĂN BÚT-Phạm Thị Bút(A1)


5.1 PHẠM VĂN CHỈ (Đốc)-PHẠM THỊ THÌN


6.1 PHẠM THỊ CÚC


6.2 PHẠM MẠNH CHI-PHẠM THỊ MẬT


7.1 PHẠM THỊ TIN


7.2 PHẠM VĂN HUYNH-ĐINH THỊ CHIẾN


8.1 PHẠM VĂN HIẾN


8.2 PHẠM THỊ YẾN


8.3 PHẠM VĂN HUÂN


7.3 PHẠM VĂN CHÂU


7.4 PHẠM THỊ MẾN


7.5 PHẠM VĂN CHƯƠNG


7.6 PHẠM VĂN CHIỂU


7.7 PHẠM VĂN HUY


6.3 PHẠM NAM DƯỢC


5.2 PHẠM BÚT MỸ-PHẠM THỊ RƠI


6.1 PHẠM ĐỨC TIẾN-ĐINH THỊ ĐỖI


7.1 PHẠM ĐỨC THIỆN-NGUYỄN THỊ DUNG


8.1 PHẠM ĐỨC PHONG-Nguyễn Thị Thu Hà


9.1 PHẠM THIÊN HÀ PHONG LAN


9.2 PHẠM HỒNG PHÚC


8.2 PHẠM ĐỨC THÁI-NGUYỄN THỊ ĐIỂM


9.1 PHẠM THỊ HIỀN THẢO


8.3 NGUYỄN CAO BẰNG-PHẠM NGUYỄN THÚY HOA


9.1 NGUYỄN CAO SANG


8.4 PHẠM ĐỨC THUẬN-KHỔNG XUÂN MAI HÂN


9.1 PHẠM HỒNG NGỌC MAI


8.5 PHẠM THỊ DIỄM OANH


8.6 PHẠM DUNG THÚY DIỄM


7.2 PHẠM THỊ LIÊN (DIED)


7.3 PHẠM THÀNH CHU-BÙI KIM THANH


8.1 PHẠM VĂN THUẬN-PHẠM BÍCH NGỌC


8.2 PHẠM HUY HOÀNG-NGUYỄN THỊ HIỀN


8.3 PHẠM DIỄM PHƯỚC


8.4 PHẠM NGỌC ĐỨC


8.5 PHẠM HỮU THỌ


6.2 PHẠM TRỌNG RỬU-NGUYỄN THỊ BẢY


7.1 PHẠM CAO MINH-ĐỖ THỊ THE


8.1 PHẠM THỊ LINH


8.2 PHẠM NGỌC ĐIỀN


8.3 PHẠM THỊ DIỄM


8.4 PHẠM NGỌC HIỂN


8.5 PHẠM NGỌC CHIẾN


8.6 PHẠM NGỌC SƯƠNG


7.2 PHẠM THỊ KIM LOAN


7.3 PHẠM THỊ KIM OANH (ĐỘC THÂN)


7.4 PHẠM NGỌC HIẾU


7.5 PHẠM THỊ THU VÂN (TU SỸ)


7.6 PHẠM THỊ THU THỦY


7.7 PHẠM THỊ KIM THANH


7.8 PHẠM CAO TRÍ


7.9 PHẠM CAO ĐỨC


7.10 PHẠM THỊ TUYẾT


7.11 PHẠM THỊ KIM DUNG


7.12 PHẠM THỊ MAI


6.3 PHẠM VĂN NGHĨA-MÃ THỊ KIM HOA


6.4 ĐINH VĂN LIỆU-VŨ VIẾT CÁCH-PHẠM THỊ NGỢI


7.1 VŨ THỊ THANH


7.2 VŨ VIẾT THÂN


7.3 VŨ VIẾT CÁC


6.5 NGUYỄN VĂN NGỌC-PHẠM THỊ KHEN


7.1 NGUYỄN NGỌC ĐỊNH


7.2 NGUYỄN THỊ THANH THỦY


7.3 NGUYỄN THỊ THANH THÚY


7.4 NGUYỄN THÀNH TRANG


7.5 NGUYỄN THÀNH TUẤN


7.6 NGUYỄN THỊ THÚY HÀNG


7.7 NGUYỄN THỊ THU TRINH


7.8 NGUYỄN VÂN ANH


6.6 TRẦN NGỌC UYÊN-PHẠM THỊ NHÀI


7.1 TRẦN MINH VĂN


7.2 TRẦN VĂN THƯ


7.3 TRẦN VĂN KHANG


7.4 TRẦN THỊ XUÂN


7.5 TRẦN THỊ TƯƠI


7.6 TRẦN THỊ LOAN


7.7 PHẠM MINH QUANG


5.3 PHẠM QUANG THÁI-PHẠM THỊ NHẶT(cai thới)


6.1 PHẠM VĂN VINH (Ty)


7.1 PHẠM THỊ KIM DUNG


7.2 PHẠM THỊ BÍCH THỦY


7.3 PHẠM THẾ HIỂN


7.4 PHẠM THỊ THÙY VÂN


7.5 PHẠM THỊ CẨM TÚ


6.2 PHẠM VĂN LONG


7.1 PHẠM VĂN QUANG


7.2 PHẠM QUANG THẮNG


5.4 PHẠM THỊ NGẶT


5.5 PHẠM VĂN SÁCH


5.6 PHẠM THỊ PHỨC


5.7 PHẠM VĂN VINH-Đỗ Thị Quyền-PHẠM THỊ PHƯƠNG


6.1 PHẠM NGỌC OÁNH-NGUYỄN THỊ KIM VÂN


7.1 PHẠM THỊ KIM CHI


7.2 PHẠM THỊ KIM ANH


7.3 PHẠM THỊ THÚY NGA


7.4 PHẠM THỊ THÚY PHƯỢNG


7.5 PHẠM NGOC QUỲNH


7.6 PHẠM THỊ LINH


6.2 PHẠM NGỌC HUỲNH-NGUYỄN THỊ YẾN


7.1 VŨ VĂN TRIỀU-PHẠM NGỌC QUỲNH TRÂM


8.1 VŨ NGỌC QUỲNH ANH


7.2 PHẠM NGỌC QUỲNH GIAO


7.3 PHẠM NGỌC QUỲNH NHƯ


7.4 PHẠM NGỌC MINH


6.3 ĐINH NGỌC RU-PHẠM THỊ LAN


7.1 ĐINH CAO THẮNG


7.2 ĐINH NGỌC HOÀN


7.3 ĐINH NGỌC THÔNG


7.4 HOÀNG VĂN HOÀI-ĐINH THỊ ÁNH TUYẾT


8.1 HOÀNG BẢO LÂN


8.2 HOÀNG THỊ SOA


8.3 HOÀNG BẢO KHÁNH


7.5 ĐINH LONG BIÊN


7.6 ĐINH PHÚ CƯỜNG


7.7 ĐINH THĂNG LONG


7.8 ĐINH THÀNG PHƯỚC


7.9 ĐINH CHÂU THANH


7.10 ĐINH THÀNH LỘC


6.4 NGUYỄN DUY DIỄN-PHẠM THỊ HUỆ


7.1 PHÙNG BÁ LONG-NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG


8.1 PHÙNG BÁ TÈO


7.2 NGUYỄN DUY LƯỢNG-ĐINH THỊ LIÊN


8.1 NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG


7.3 NGUYỄN DUY LINH-............... HẰNG


7.4 NGUYỄN THỊ HOÀI TÂM


7.5 NGUYỄN THỊ HOÀI AN


7.6 ............. DANH-NGUYỄN THỊ HOÀI TRANG


6.5 HỒ ĐỨC TRÌNH-PHẠM THỊ TUYẾT HƯỜNG


7.1 HỒ ĐĂNG HẢI


6.6 PHẠM QUANG HUY-ĐOÀN THỊ NGA


7.1 PHẠM TÚ ĐAN


7.2 PHẠM THỊ TÚ UYÊN


6.7 PHẠM THỊ KIM HƯƠNG


6.8 PHẠM QUANG TRỊ-PHẠM THU HÀ


7.1 PHẠM QUANG TRỰC


7.2 PHẠM QUANG TRÍ


6.9 PHẠM QUANG TRUNG-MẠCH TUYẾT NGA


5.8 PHẠM VĂN BẠ-Phạm Thị Mai


6.1 PHẠM VĂN LƯỢNG


6.2 PHẠM VĂN HẢI


6.3 PHẠM VĂN NHƯ


6.4 PHẠM THỊ NỤ


6.5 PHẠM THỊ NỮ


6.6 PHẠM THỊ NHI


4.2 PHẠM VĂN QUẢNG


4.3 PHẠM VĂN KHÁNH


4.4 PHẠM THỊ TẠO


3.3 PHẠM VĂN HỔ


4.1 PHẠM THỊ GÁI (ĐỘC THÂN)


4.2 PHẠM THỊ TÂU


4.3 PHẠM THỊ MẪU


4.4 PHẠM VĂN CHUẨN


4.5 PHẠM VĂN TIẾU


4.6 PHẠM THỊ SƠN


4.7 PHẠM THỊ CẢNH


2.2 chi tộc cụ PHẠM ĐÌNH QUỲ


3.1 PHẠM ĐÌNH TÍCH


3.2 PHẠM ĐÌNH TRUYỀN


4.1 PHẠM KHẮC CHẤN (TỬ ĐẠO)


5.1 PHẠM VĂN ÁN


5.2 PHẠM VĂN HƯNG-Phạm Thị Hưng(A1)


6.1 PHẠM VĂN DƯ-PHẠM THỊ SƯƠNG


7.1 PHẠM VĂN TƯỚC (DIED)


7.2 PHẠM THỊ NHIỄM (DIED)


7.3 PHẠM BÚT MỸ (cháu rể thánh Ngôn)-PHẠM THỊ RƠI (cháu thánh Ngôn)


8.1 PHẠM ĐỨC TIẾN-ĐINH THỊ ĐỖI


9.1 PHẠM ĐỨC THIỆN-NGUYỄN THỊ DUNG


10.1 PHẠM ĐỨC PHONG-Nguyễn Thị Thu Hà


11.1 PHẠM HỒNG PHÚC


7.4 PHẠM VĂN NGHIÊM (DIED)


7.5 ĐINH VIẾT NHÃ-PHẠM THỊ KÍNH


8.1 ĐINH VIẾT VẬN


8.2 ĐINH THỊ HÒA


8.3 ĐINH THỊ TIỆC


8.4 ĐINH VIẾT ĐỎ (dưỡng tử)


8.5 ĐINH VIẾT NHƯỢNG-VŨ THỊ LAN


9.1 ĐINH QUỐC DŨNG-NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN


10.1 ĐINH THỊ NGỌC


10.2 ĐINH MINH HÒA


9.2 ĐINH MINH XỨ


9.3 ĐINH THỊ PHƯƠNG


9.4 ĐINH THỊ YẾN


9.5 ĐINH THỊ TIN


9.6 ĐINH THỊ BÍCH


9.7 ĐINH THỊ LỤA


8.6 VŨ VĂN MÃO-ĐINH THỊ MẾN


7.6 PHẠM VĂN VINH


7.7 PHẠM VĂN TU (DIED)


7.8 PHẠM THỊ GÁI (DIED)


7.9 ĐOÀN VĂN TIỆM-PHẠM THỊ CHUỘNG


8.1 ĐOÀN VĂN HIẾU


8.2 ĐOÀN THỊ THIỆN


8.3 ĐOÀN VĂN TRUNG


8.4 ĐOÀN VĂN TIẾN


6.2 PHẠM VĂN QUẢNG(CỐ)-NGUYỄN THỊ LOAN


7.1 PHẠM VĂN KIỂM(ĐỞN)-PHẠM THỊ SƠN


8.1 PHẠM THÁI HÒA (DIED)


8.2 PHẠM CHU TRINH-CAO MỘNG DIỆP


9.1 PHẠM CHU MẠNH TỈNH


9.2 PHẠM CHU MẠNH VÂN


9.3 PHẠM CHU NGỌC TRÂM


8.3 PHẠM TẤN THỊNH


8.4 PHẠM THỊ KIM HOA


8.5 PHẠM THỊ SEN (DIED)


8.6 PHẠM THỊ KIM LIÊN


7.2 PHẠM CHÍ THÀNH (LM)


6.3 PHẠM VĂN Đệ-PHẠM THỊ CHÚT


7.1 PHẠM NGỌC LIỂN-PHẠM THỊ HIÊN


8.1 PHẠM VĂN TUỆ


8.2 PHẠM VĂN VƯỢNG


8.3 PHẠM THỊ MIÊN


8.4 PHẠM VĂN TIN


8.5 PHẠM THỊ SỢI


8.6 PHẠM THỊ ĐẦM


8.7 PHẠM VĂN HOẠT


8.8 PHẠM THỊ HƯƠNG


7.2 PHẠM VĂN TÂM


7.3 PHẠM THỊ NGẤN


7.4 PHẠM THỊ HẢO


6.4 PHẠM VĂN CÁT-PHẠM THỊ NHIỄU


7.1 PHẠM VĂN HOÀNH-PHẠM THỊ NGOÃN


7.2 PHẠM THỊ VÂN


7.3 PHẠM THỊ NGOAN


6.5 PHẠM ĐỖ HOẠT-PHẠM THỊ ƠN


7.1 PHẠM ĐỖ NHẠC


7.2 PHẠM ĐỖ NHÂM


7.3 PHẠM VĂN OÁNH-PHẠM THỊ HỆ


8.1 PHẠM VĂN ROANH


8.2 PHẠM THỊ MẾN


8.3 PHẠM VĂN LIỄN-TRẦN THỊ THE


9.1 PHẠM THỊ TƯƠI


9.2 PHẠM VĂN VINH


9.3 PHẠM NGỌC LỄ


9.4 PHẠM VĂN CHÂN


9.5 PHẠM THỊ HƯƠNG


7.4 PHẠM VĂN CHẤP-PHẠM THỊ MỌI


8.1 PHẠM VĂN MIỄN-PHẠM THỊ SEN


9.1 PHẠM XUÂN ĐÍNH


9.2 PHẠM NGƯU HOÀNG


9.3 PHẠM THỊ HỒNG


9.4 PHẠM THỊ TRANG


9.5 TRẦN VĂN GIÁ-PHẠM THỊ SÂM


9.6 PHẠM THỊ KIỀU PHI YẾN


9.7 PHẠM THỊ PHƯƠNG


9.8 PHẠM THỊ TINH


8.2 PHẠM THỊ ĐIỀU


7.5 PHẠM THỊ THOA


7.6 PHẠM THỊ THÊU (TU SỸ)


7.7 PHẠM THỊ GẤM


7.8 PHẠM THỊ DỆT


7.9 PHẠM THỊ LĨNH


6.6 PHẠM THỊ CHỤT


6.7 PHẠM THỊ CÔI


5.3 PHẠM VĂN GIANG


5.4 PHẠM THỊ NHÂN


4.2 PHẠM KHẮC TẾ-con gái cụ Hương Hiền


5.1 PHẠM VĂN THI-PHẠM THỊ DÂNG


6.1 PHẠM VĂN VỊNH-con gái cụ Hương hài


7.1 PHẠM VĂN LẠNG


7.2 PHẠM VĂN VI


7.3 PHẠM VĂN TÚ(DIED)


7.4 PHẠM VĂN NGỌC(DIED)


7.5 PHẠM THỊ NGA


7.6 PHẠM VĂN HỘ (BRVT)-PHẠM THỊ TIN


8.1 PHẠM THỊ CÂY


8.2 PHẠM VĂN HẢO(BRVT)-ĐINH THỊ YÊU


8.3 PHẠM XUÂN HƯƠNG


8.4 PHẠM VĂN HÒE (BRVT)-ĐINH THỊ CHUỘNG


7.7 PHẠM THỊ HOA (DƯỠNG TỬ)


6.2 PHẠM VĂN BIỀNG


6.3 PHẠM VĂN CA


6.4 PHẠM VĂN NGỮ (B)


7.1 PHẠM VĂN PHÚ (VÂN)


7.2 PHẠM THỊ ĐÀO


7.3 PHẠM THỊ SEN


7.4 PHẠM THỊ LỰU


7.5 QUÁCH ĐỨC RONG-PHẠM THỊ MAI (RONG)


6.5 PHẠM BÌNH HUẤN(B)


5.2 PHẠM VĂN ĐÀM(KỶ)-con gái cụ Trùm Trụ


6.1 PHẠM VĂN BỈNH(BIỂNG)


6.2 PHẠM VĂN TOÀN-ĐỖ THỊ QUYỀN


7.1 Phạm Thi Lan


7.2 Phạm Thị Huệ


7.3 Phạm Thị Tuyết Hường


6.3 PHẠM VĂN KIÊM (DIE)


6.4 PHẠM TRÍ TRI-PHẠM THỊ HOA


6.5 PHẠM THỊ NHƯỜNG


6.6 PHẠM THỊ MUN


6.7 PHẠM THỊ MI


6.8 PHẠM THỊ SÓT(DƯỠNG TỬ)


5.3 PHẠM VĂN TỤNG


5.4 PHẠI THỊ KHẢI


5.5 PHẠM THỊ TỰ


5.6 PHẠM THỊ QUANG


4.3 PHẠM KHẮC CHIÊU (TU SỸ)


2.3 chi tộc cụ TRÂN


3.1 PHẠM NGỌC LIỄN-vợ con cụ hương duyên.


4.1 PHẠM VĂN DUNG-PHẠM THỊ DUNG


5.1 PHẠM VĂN ĐĨNH


6.1 PHẠM VĂN ĐẠC (DIE)-ĐINH THỊ MỪNG


7.1 PHẠM THỊ TRÂM


7.2 PHẠM THỊ CÀI


6.2 PHẠM VĂN ĐIỀN (DIED)


6.3 PHẠM VĂN BẠ-PHẠM THỊ MAI


5.2 PHẠM VĂN NAN


5.3 PHẠM VĂN ĐOAN


4.2 PHẠM VĂN TOẠI (SAN)-vợ con gái bà Ban


5.1 ĐINH VĂN KHẤU-PHẠM THỊ GI


6.1 ĐINH VĂN ĐIỀN


6.2 ĐINH VĂN GIÁP


5.2 PHẠM VĂN TRÁC-PHẠM THỊ HOA-PHẠM THỊ HƯNG


6.1 PHẠM VĂN TRẠCH(A)


6.2 PHẠM VĂN TRẠC(A)


6.3 PHẠM VĂN MINH(B)


6.4 PHẠM MINH TRÝ (B)(LM)


6.5 PHẠM VĂN ĐỨC(B) (DIED)


6.6 PHẠM QUANG TRUNG


6.7 PHẠM ĐÔNG CHIÊU


6.8 PHẠM XUÂN TRƯỜNG


6.9 PHẠM MINH TRANG


6.10 PHẠM TUẤN TÚ


6.11 PHẠM BÁ TRẠC


5.3 PHẠM VĂN NGỌC(DIED)


5.4 PHẠM THỊ GIẮT


5.5 PHẠM VĂN NHẠC


3.2 PHẠM NGỌC ĐẮC


3.3 PHẠM NGỌC BÁCH


3.4 PHẠM NGỌC THƯ


2.4 chi tộc cụ KHUÔNG (CUÔNG)


3.1 PHẠM VĂN THỨC


3.2 PHẠM VĂN LINH


3.3 PHẠM THỊ BÚT(A1)


3.4 PHẠM THỊ NGHIỄM


2.5 PHẠM VĂN THỂ (tử đạo)-chi tộc cụ PHẠM THỊ THỂ


3.1 PHẠM VĂN HƯNG-PHẠM THỊ HƯNG(A2)


4.1 PHẠM VĂN DƯ-PHẠM THỊ XƯƠNG


5.1 PHẠM BÚT MỸ-PHẠM THỊ RƠI


6.1 PHẠM VĂN TIẾN-ĐINH THỊ ĐỖI


7.1 PHẠM ĐỨC THIỆN


8.1 PHẠM ĐỨC PHONG


9.1 PHẠM HỒNG PHÚC


2.6 chi tộc cụ PHẠM VĂN VINH


2.7 chi tộc cụ PHẠM VĂN CỔN


3.1 PHẠM VĂN GAI


4.1 PHẠM VĂN TÂM


5.1 PHẠM VĂN TIỆM (DIED)


5.2 PHẠM VĂN NGỰ (BRVT)


6.1 PHẠM THANH BÌNH


7.1 PHẠM VĂN DŨNG


6.2 PHẠM DƯƠNG KHANH


6.3 PHẠM THỊ LỆ THU


6.4 PHẠM THỊ LỤA


6.5 PHẠM THỊ HỒNG


6.6 PHẠM THỊ NGA


5.3 PHẠM THỊ DƯỜNG


5.4 PHẠM THỊ RY


4.2 PHẠM THỊ LUẬT


4.3 PHẠM THỊ KHUYỂ


4.4 PHẠM THỊ NGUYỆN


3.2 PHẠM VĂN CÁT


3.3 PHẠM VĂN THẾ